Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Câu chuyện đọc Vong bướm và Truyền thuyết tìm vua



Hồ Cảnh Hưng
Đầu năm mới năm nay có sự kiện ra đời hai tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhưng kỳ lạ đó là hai tác phẩm chèo toàn bằng lục bát. Sự kiện có hai tác phẩm mới này làm háo hức biết bao nhiêu người. Tôi nhớ vào đúng độ những ngày đầu tháng Giêng vừa mới ra Tết, bất ngờ trên web Sài Gòn Tiếp thị tôi đọc được những dòng đầu tiên mục lời nói đầu của Vong bướm, tôi đã bức xúc thế nào. Tôi đọc chậm, diễn cảm, từ từ, chỉ cần những chèo là, chèo là tôi đã bắt đầu run; sang tới “chừ đây bên nớ bên tê” thì hầu như tôi liệt mất nửa người! Từ trước tới giờ chưa bao giờ tôi còn hy vọng tìm đọc được tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp mà nay trong một phút vô tình đã tìm gặp được nó, thì đối với tôi sự kiện quá bất ngờ. Từ sau Vong bướm nhiều ngày tôi cảm thấy liệt giường bởi bao nhiêu những trận đời hung tàn, khủng khiếp ụp xuống đầu. Bên cạnh đó, tác phẩm thứ hai làm tôi thật sự nao núng đó là Truyền thuyết tìm vua đã được giới thiệu nhưng chưa lên trên mạng và phải chờ cho tới Nghệ thuật mới. Tôi đã đếm từng ngày vì nghĩ rằng đây sẽ phải là một sự kiện sẽ làm rộn lên những hỉ nộ ái ố xung quanh nhà văn danh tiếng và quyến rũ bậc nhất này. Ngày chờ đợi đã đến, từ xa tôi về Sài Gòn lục kiếm Nghệ thuật mới trong các nhà sách (vì tôi đinh ninh nó là một cuốn tạp chí hoặc một cuốn sách), nhưng không tìm được. Tôi chờ thêm vài ngày nữa vì nghĩ rằng có thể sách phát hành ở Hà Nội, đường vận chuyển xa nên nó chưa thể tới Sài Gòn. Để chắc ăn, tôi nán đợi hai ngày nữa mới lại vào Sài Gòn. Nhưng vẫn không có! Các cô nhà sách không biết Nghệ thuật mới là gì. Trên đường về tôi ghé qua đường Nguyễn Văn Cừ, vào một quầy báo hỏi. Thì có. Có. Tôi cho rằng hy hữu, vì thực sự trước đây tìm một cuốn gì có tính chất văn nghệ là một việc vô cùng khó khăn. Nhưng trời, trên đường về ở hai bên đường Nguyễn Thị Minh Khai tôi thấy Nghệ thuật mới có đầy! Hết sạp này tới sạp khác, một ông Chế đứng bên trên và  một ông khoanh tay đứng dưới treo đầy. Tôi cầm tờ báo trên tay mà mắt cứ ngó mấy cái tờ báo treo trên sạp của người ta.
Tôi quăng tờ báo trên xe chạy thẳng về nhà nhưng tôi chưa đọc được vì có khách. Có hai ông anh bà chị tôi tới chơi. Nghe tiếng cửa xe đóng cái "khình" thì hai ông bà kẻ trước người sau đi vào. Vào nhà, ông nọ cầm lấy cuốn báo nằm xuống ghế bố đọc ngay. Hai vợ chồng thỉnh thoảng chọc ghẹo nhau một câu và ông chồng của bà vợ xổ Nguyễn Bảo Sinh ra. Nhưng ông ta đọc quá lâu...!! Tôi phát run khi họ ra về. Tôi nhặt xấp báo lận lưng, ngó quanh, xem có ai quở trách gì không. Không! Để thưởng thức món ngon, tôi kéo cái ghế ra ngoài cây nhãn, pha thêm một ấm trà nóng, ngồi xuống, và đọc. Từ suốt sáng tới giờ tôi chưa dám để mắt vào vì sợ mất chữ đi, còn bây giờ thì tự do hoàn toàn.
Bắt đầu bằng sự kiện Nguyễn Kim “bớ ba quân” ra, rồi Trịnh Kiểm ra, rồi chúa Chổm ra. Sa sả, sa sả giàn đồng ca từ trên trời giáng xuống những trên cao thăm thẳm trời xanh, đời người vùn vụt trôi nhanh như là. Rồi giàn đồng giao. Rồi mẹ Chổm. Rồi những tôi hóa dại, tôi hóa khôn, tôi nói xuôi cũng được, nói ngược cũng dễ nghe. Rồi lại những giàn đồng ca, rồi Chổm. Rồi ngộ thiền, dễ mấy ai. Đường trần nào dễ mấy ai... Tôi chết đứng!
Nói chung, trong giai đoạn đầu xuân năm mới năm vừa rồi tràn ngập trên mạng một sự kiện kinh thiêng động địa vì Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp hiện tại đang ở đâu? Đang bán Vong bướm ngoài chợ trời. Đang giao lưu. Đang ngồi dựa ngửa ở cà phê Trung Nguyên. Đang ở đâu nữa? Đang “đời vô minh, tầm thường”. Nguyễn Huy Thiệp đang làm cho các ông Lưu, ông Xuân phát điên! Đọc xong Vong bướm tôi muốn nằm liệt giường bởi những lời như tiên tri về số phận của những người lưu lạc và của văn nghệ sĩ, tôi nằm bẹp dưới sàn nhà. Sang Truyền thuyết tìm vua thì với những ý tứ cực kỳ đơn giản nhưng thâm hậu khiến tôi liệt toàn thây. Đọc, đọc, đọc, Truyền thuyết tìm vua hết, tôi chửng hửng. Sao nó hết liền liền như vậy chứ, hử ông trời? Hết một cách đau đớn. Trong quá trình đọc tôi cứ phải giở lui xem nó còn được bao nhiêu nữa, liệu có còn được dài dài nữa không, thì nay hết trơn! Chấm hết. Tôi bước vào dòng Dường như chú giải như một người lần đầu tiên bước vào vườn yêu, chữ nào chữ nấy hiện ra tôi nuốt trọn như nuốt chửng một trái ổi. Nhiều người đọc bảo không thích đoạn này, với tôi, đoạn đó là một trong những đoạn hay nhất từ trước tới giờ tôi đọc văn. Câu chữ, ngữ nghĩa, mê man bất tận, gợi ý ra hằng trăm ngàn cái hiểu mới mẻ tôi chưa từng tiếp xúc bao giờ. Nói về người, nói về tiên thiên, hậu thiên, nói về đời, về Đạo, về thượng nhân, hạ nhân, nói về Tâm Thức, nói về Khí, nói về Mệnh, giữa một mùa xuân như vậy, tôi cảm giác thông suốt trời đất, không còn có thể nói gì được nữa. Thời gian sau hầu như tôi tê liệt trong cái chân trời ấy, cho tới mãi bây giờ. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt ông nói về đời sống, về Đạo tuyệt hay, trong đời tôi chưa từng nghe ai nói về Đạo, về con người, về cuộc sống và về trời đất hay như ông. Tôi cứ lên trên mạng chờ nghe tin tức, rồi đi ra ngó lên cây táo dại, rồi lại đi vào, dỏng tai nghe ngóng. Lại những ông Lưu, ông Xuân, ông Thuấn la hét om sòm. Tôi đi trên đường, Vong bướm với lại Chúa Chổm cứ từ cái không gian trong đầu nó tiết ra, kêu lên. Giật mình trong mơ tôi cũng chứng thấy được hai câu, bốn câu, hoặc một đoạn. Nó nảy ra, nó tự kêu lên và tự nó được chứng thấy, đến nỗi, cho tới giờ này tôi cũng chửa dám trích dẫn lấy một câu, một đoạn nào trong hai vở kịch chèo đó cả vì cứ như có cái gì đó nhiều quá, trong một mạch thẳng thớm quá, cắt riêng ra ngoài thấy uổng quá. Nhà thơ Trần Đăng Khoa bảo Nguyễn Huy Thiệp lừa bạn đọc, tôi đứng như trời trồng không hiểu ông lừa người ta chỗ nào. Ông viết quá hay, đọc, ngấm vào, giãn nở ra, tự nó đi theo những quỷ đạo riêng xâm chiếm người ta, nó có đời sống riêng của nó mà dù muốn hay không vẫn không giở bỏ nó ra ngoài được. Tôi chết!
Ôi chao là vong bướm. Bây giờ tôi vẫn còn thấy toàn là vong với bướm. Những xương thay chất trắng đồng, những cái chết thảm, những cháy sém vườn cam, mái chanh, những vụ thất tiết, bỏ mạng như khói tận thế trùm lên không gian.
Khoảng tháng bảy vừa rồi ở cầu Bình Triệu các thày nghe vong hồn chết oan ức về kêu các thày ra đọc kinh cầu siêu giúp, mặc mưa gió các vị ra lập đàn cầu siêu, tôi cũng ra, đứng trên bờ sông, tôi muốn tắt thở. Nghĩ, một kiếp trôi nổi, ân oán trong đời mỗi người biết bao nhiêu mà kể. Lại nghĩ tới Vong bướm, tới chữ tình, chữ đa đoan, tới ngu si, sân hận, đớn đau, tới những vong ma, tận thế, mất mùa, dịch bệnh, oán hờn, tới vườn cam, mái gianh, tới việc đi Tây, đi Tỉnh, tới việc yêu đương, rượu chè, cờ bạc, gái trai, tới những chân dài chân ngắn bước đi, tới giấm thanh lửa nồng, nợ nần, Ma vương, quỷ vương, rồi tới cái đi mà không đến, tới cái sinh lão bịnh tử, tới cái chết, tới Đạo. Tôi sững sờ. Tôi chết!
Sau đó, ở trên một tỉnh miền núi, tôi đưa máy chụp hình và tiền bồi dưỡng cho hai ông nọ sẵn tiện xe sú (rau cải) trở về Sài Gòn đi lấy tư liệu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi nghe tin ông giao lưu tại Trường Đại học KH Xã hội & Nhân văn. Hai ông này được bồi dưỡng một ít vốn, ra đi từ chín giờ tối, về tới Sài Gòn khoảng ba giờ sáng, ngủ quán, rồi tới Đại học KH Xã hội & Nhân văn giao lưu vào bảy giờ sáng. Tôi bảo các ông ấy hãy quay phim Nguyễn Huy Thiệp gần được chút nào hay chút đó để thâu được cả âm thanh, để có thể tôi có tư liệu riêng. Tôi bảo như thế. Hai ông ra đi, hoàn tất thêm một số việc ở đó nữa, rồi trở về, đưa lại máy ảnh cho tôi. Tôi đem máy ảnh vào văn phòng mở ra xem. Nhưng các đoạn video không đoạn nào nghe được tiếng cả. Tôi đã phải mất tới một ngày để cải tiện chất lượng âm thanh nhưng vẫn không nghe được lấy nửa chữ. Tôi phóng to tiếng lên trong la thùng thì các “đương sự” không nói mà các đương sự lại hú! Các bức các ông chụp cũng không bức nào sáng tỏ, chỉ có một bức ảnh các ông chụp chữ “Giao lưu với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp” là sáng rõ. Trong bức ảnh đó có cả một cô sinh viên đứng bên tờ phướn, giơ hai ngón tay, trông như một con yêu tinh. Như vậy thì chẳng được cái gì cả, coi như “đi mà không đến” đây!
Tôi thực sự phát điên, vì thực tế tôi đâu có nhờ vả không? Tôi quay ra hỏi hai ông có nhớ Nguyễn Huy Thiệp nói gì không. Một ông bảo: Tôi đi vào quay phim, tôi nghe ông nhà thơ Bảo Sinh đọc thơ hay kinh (nguyên văn). ổng đọc cái gì? Ông nọ bảo tôi: ổng nói gì đó là “ta đã hại cuộc đời ba bốn lần rồi, xin sorry!” Còn Nguyễn Huy Thiệp nói gì? Ông nọ bảo tôi: Tôi nghe ông ấy nói gì là “viết văn mà không có tiền thì vứt đi”! Tôi hỏi: Trông Nguyễn Huy Thiệp thế nào? Ông nọ bảo: Nhìn là biết người không tầm thường. Tôi bảo: Vậy hả?
Nhưng, chuyện đã qua rồi. Hôm nay nghe người ta Happy New Year trong loa thùng thì tôi chợt nhớ… Tôi thực sự run, không biết năm nay có được đọc tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nữa không. Ước gì được. Mùa xuân ngày xưa là mùa của tình yêu, còn với tôi bây giờ mùa xuân là mùa của lục bát, của văn chương, của thơ, kịch chèo, của nỗi buồn và của những đau khổ bứt rứt trái tim.
Mùa xuân là mùa của chết chóc, của tàn tạ, của những nỗi buồn bứt rứt con tim… 

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Chúng ta viết tiểu thuyết không thể bằng thế giới được



Vũ Gia Hà
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Vua truyện ngắn
Sáng nay (ngày 11/8/2012), tại giảng đường Khoa Viết văn - Báo chí, trường Đại học Văn hóa Hà Nội, diễn ra cuộc nói chuyện giữa nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với các học viên lớp “Kĩ năng sáng tác và thẩm bình truyện ngắn”. Nhân đây, chúng tôi có cuộc trao đổi với ông.
PV: Quá trình dạy học có thúc đẩy gì đến việc ông trở thành một nhà văn?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Nitsơ đã nói rằng đó bản năng. Chính bản năng đã thúc đẩy sự ham muốn viết của một thầy giáo như tôi. Chúng ta muốn chứng tỏ rằng mình đang sống, nên chúng ta viết.
PV: Ông nghĩ gì về Đạo làm người?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Đạo kia là kẻ vô hình/ Chúng ta là kẻ vô tình bước qua. Chạm đến Đạo là chạm đến cái chết; là hết tham, sân, si; là hết tính người. Đi tìm Đạo là đi tìm cả cái chết và sự sống. Đã là con người thì phải có tham, sân, si. Đó là bản năng của chúng ta. Không có những cái này, chúng ta không phải là con người. Quan trong là biết tiết chế. Chúng ta phải biết ranh giới của nó.
PV: Sau khi đã đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp, ông có dự định chinh phục những đỉnh cao khác?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Tôi viết xong rồi. Viết nhiều nó nhảm. Có phải viết nhiều là tốt đâu. Chúng ta vào thư viện, có rất nhiều sách. Đa số là sách vứt đi.
PV: Ông nghĩ gì về truyện lịch sử?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Chúng ta tồn tại là nhờ những “gen” mạnh: “gen” tinh thần, “gen” trí tuệ, “gen” sức khỏe và cả “gen” tiền bạc. Truyện lịch sử tồn tại dưới tay kẻ viết mạnh nhất. Chúng ta phải biết lợi dụng lịch sử. Đại ý như câu nói mà tôi đã từng nghe: “lịch sử là cái đinh để tôi treo áo”.
PV: Thưa nhà văn, điều thiện của con người có phải là cái tốt nhất?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Có điều thiện là tốt. Nhưng nhiều khi chúng ta khổ vì điều thiện. Nếu thiên về điều thiện quá thì nguy. Chúng ta đừng có lệ thuộc quá nhiều vào điều có sẵn. Chúng ta phải tìm kiếm cái mới.
PV: Ông có tin vào sức mạnh của văn chương Việt Nam sẽ làm nên được những bộ tiểu thuyết lớn?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Chúng ta viết tiểu thuyết không thể bằng thế giới được. Các nước như Nga, Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, họ có những lâu đài văn chương thật sự. Chứ không phải những lâu đài dễ vỡ như ta. Ra nước ngoài rồi quay lại nhìn những cái của ta thật là thảm hại. Truyện ngắn phù hợp với ta vì sức khỏe và trình độ của ta có giới hạn.
Người Việt Nam không làm được cái lớn đâu. Chúng ta phù hợp với cái nhỏ hơn. Làm như vậy, chúng ta mới đạt được giá trị cả hình thức lẫn nội dung. Bạn thử nghĩ đến những giá trị tinh thần và vật chất mà cha ông để lại thì biết. Có lẽ cũng do môi trường sống và con người nữa. Ví như ở Trung Quốc có núi cao, sông rộng, lòng người hiểm nên họ mới có những bộ tiểu thuyết lớn.
PV: Thưa ông, với truyện ngắn, làm cách nào để viết được nó một cách thành công nhất?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Viết truyện ngắn, anh phải biết căn cơ. Như muốn đi một chuyến đi xa, anh phải chuẩn bị tiền, quần áo và nhiều thứ linh tinh khác.
PV: Ông có thể nói qua về mối quan hệ giữa văn học và chính trị?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Mối quan hệ giữa văn học và chính trị là mối quan hệ tất yếu. Từ Aristot đến Mạnh Tử, có nghĩa là từ Tây sang Đông đều nói đại ý thế này: Con người sinh ra là đã mang bên mình bản thân chính trị. Anh phải biết về nền chính trị đương thời. Phải có bản lĩnh chính trị. Tu thân, tu đạo là tu bản thân chính trị. Giả hoặc một người cha phải biết nói nhiều giọng điệu để có cách ứng đối linh hoạt. Với vợ một giọng và với con phải một giọng.
PV: Thưa nhà văn, lợi ích của văn chương là gì?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Có người nói tôi sinh ra để làm nhà văn. Số phận bắt tôi phải làm nhà văn. Có lẽ điều đó đúng. Tôi thấy từ vua chúa đến thường dân đều bị văn chương làm cho mê hoặc. Nếu ngoài việc kiếm tiền ra mà chúng ta cứ ăn uống, chơi bời thì còn gì là thú vị. Cuộc đời dễ trở nên chán chường.
Văn chương có cái lợi hại là lúc nào nó cũng giúp lòng người hướng đến ánh sáng. Ngay trong quá trình bắt tay vào sáng tạo đã có điều đó. Người xưa có câu “nhà ta quý chữ hơn vàng” để minh chứng cho điều đó.
PV : Ông có bao giờ hoang mang về văn chương?
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: Tôi chưa bao giờ hoang mang về văn chương. Tôi làm mọi thứ có thể hoang mang chứ văn chương thì chưa. Những người yêu văn chương đích thực kiểu gì cũng tìm được đường thoát hiểm cho riêng mình. Văn chương là thứ đáng quý, đáng hy sinh về nó.

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2011

"Quan âm chỉ lộ": Tâm sự của tha nhân


“Hãy đi trên con đường bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường mà Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ lối đưa đường”.
(Trích “Quan âm chỉ lộ”)
Hồ Cảnh Hưng
Chúng ta đi vào từng cảnh một của truyện ngắn này. Niềm vui, nỗi buồn và chuyện đời bề bộn. Những điều nhỏ cho đến những điều lớn đều khiến chúng ta xúc động, bồi hồi. Bâng khuâng như nửa muốn dừng, nửa muốn trôi. Cũng là một dòng sông, một khúc đoạn có tên là cuộc sống.
Chúng ta chỉ mãi là một tha nhân như hạt bụi trên những chặn đường. Có một điều này: Tiếng của lương tri nhắc nhở bên trong của mình: Một nỗi lòng, một tâm sự tha nhân.
Về con người:
- “Tôi nhớ mãi ánh mắt chị. Tôi đã nhìn thấy nhiều ánh mắt của những người phụ nữ đau khổ, rất nhiều ánh mắt tê dại vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà chẳng thấy gì, nó không đủ sức lưu lại hình ảnh của bất cứ ai, bất cứ vật gì”. 
- “Không biết những người chồng, người con, những người thân của họ đã làm những gì để làm cho nó khô kiệt, đã làm mất hết đi vẻ tinh anh trong ánh mắt kia?”
- “Cuộc đời con người nào nhiều nhặn gì, ai trong số chúng ta đã được yêu thương, đã được vuốt ve bởi những ánh mắt chân tình tự nhiên không hề vướng bận sân si vụ lợi?”
Về dòng đời:
- “Giọng cười nào, tiếng hát nào, giấc mơ nào của ngươi cũng đều nồng nàn vẻ đẹp thuần khiết hiến tặng cho cuộc đời, cho con người... mà người thì bạc như vôi, còn đời thì ngắn...”.
Về tình yêu:
- “Tôi chăm chú nhìn Công, thấy ông ta là người thành thực. Tôi rất ngạc nhiên, ngẫm nghĩ mãi về hình ảnh cô Đun-xi-nê bé nhỏ, dạy học ở một nơi khỉ ho cò gáy, lại là nguồn cảm hứng cho gã Đôn Kihôtê giang hồ quốc tế, khiến ông ta làm được những việc động trời”.
- “Thế gian này thật diệu kỳ! Trong muôn thứ diệu kỳ thì tình yêu chính là điều diệu kỳ nhất”.
Về nhà văn:
- “Chú là nhà văn, chú có biết câu “nhà văn là tai mắt của nhân dân” không? Chú viết văn, điều gì hướng đạo ngòi bút của chú?”
- “Tôi bỗng nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá. Tôi nói với anh Lai rằng quả thực không phải lúc nào tôi cũng trả lời được những câu hỏi do công việc và cuộc sống đặt ra”.
- Anh Lai nói: “Tôi nhớ trong Kinh thánh, Chúa đã từng mắng các văn sĩ rằng họ chỉ nhắm miếng ngon, khát khao thụ hưởng. Trong các hội đoàn, họ ngồi ghế hạng nhất... Chúa không mắng những người làm nghề nghiệp khác”.
- “Nhiều lần, tôi nhớ lại những ngày gian khó thuở tôi còn đi dạy học ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một thày giáo tiểu học vô danh, tôi như viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi lúc nào cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận”.
- “Tôi không hiểu nổi một người viết văn như chú. Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho mọi người dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì?”
- “Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt... Tôi chỉ nhận ra ở chú dục vọng hão huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng hão huyền, ghê gớm ấy ở mỗi một người? Điều ấy là tốt ư? Không phải! Xấu ư? Không phải!”
- “Từ bản chất, tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú”.
Quan âm chỉ lộ:
- Buổi tối, dưới ánh đèn pho tượng trông thật rạng rỡ. Xem xét kỹ, ai cũng thấy rõ ràng đây là một pho tượng quý. Ở dưới đĩnh vàng, có hình Thái thượng lão quân đắp nổi và chữ “Bình an lộ”. 
- “Ý nghĩa của pho tượng là hãy đi trên con đường bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường mà Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ lối đưa đường”.
- Chiều hôm ấy, sau bữa cơm, ai nấy đều giật mình vì phát hiện ra pho tượng Quan Âm chỉ lộ bỗng nhiên biến mất.  
Chúng tôi về Hà Nội. Thời gian trôi đi. Tôi cũng nghĩ rằng câu chuyện không vui trong dịp Tết năm ấy rồi cũng rơi vào quên lãng. 
- “Một hôm, chị Hỷ đến nhà tôi chơi. Tôi rất ngạc nhiên thấy chị mang đến bức tượng Quan Âm chỉ lộChị nói: “Tôi đã tra hỏi con bé “ô-sin”. Tôi đã không nhầm. Nó là thủ phạm của vụ trộm này. Chú có biết không, hạng người như nó thì có dạy dỗ thế nào vẫn thế... Tôi đã đuổi việc nó rồi!”
- “Tôi mời chị Hỷ ở lại ăn cơm nhưng chị từ chối nói là rất bận. Tôi ngồi một mình, buồn bã nâng bức tượng lên tay xem xét. Hình ảnh cô gái bé nhỏ âm thầm quỳ trước bàn thờ Chúa cầu nguyện hôm nào trong ngôi nhà thờ ở Sa Pa hiện ra ở trước mắt tôi. Tội nghiệp cho nó. Tôi không tin nó là thủ phạm. Ở bên ngoài, những chiếc lá của cây báng súng rơi lả tả trên nền sân đá”.
“Chị Hỷ ra về. Tôi cẩn thận đặt bức tượng Phật lên trên bàn thờ. Trên khuôn mặt Quan Thế Âm Bồ tát hình như có một giọt nước mắt trong veo lăn xuống khóc cho số phận trớ trêu của mỗi con người”.
- “Chắc chắn là tôi sẽ còn quay trở lại Sa Pa. Phải trở lại chứ! Vì sao ư?  Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người!”
“Trên đất nước mình, đâu đâu chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người? Hãy làm cho mảnh đất này ngày càng phì nhiêu, tươi đẹp. Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ thế”.
“Kìa Xuân đang về. Lại một cái Tết đi qua. Hãy lắng nghe âm thanh trong lòng. Phải sống! Phải sống cho ra giá trị cuộc sống con người, dù cho thế nào đi nữa...”
Thật bình ổn, thật cao thượng, thật thâm trầm, thật nhân từ, thật tốt đẹp!
“Quan âm chỉ lộ”, tâm sự của một tha nhân, của một nhà văn, một tấm lòng…
(Ảnh của họa sỹ Nguyễn Đình Đăng)
QUAN ÂM CHỈ LỘ
Nguyễn Huy Thiệp
Ngôi trường vùng cao ở lưng chừng đồi, đơn sơ một ngôi nhà gianh vách đất, một nửa là lớp học, một nửa là chỗ ở của hai cô giáo Thu và Kiểm. Lớp học thường xuyên xê dịch có từ 7 đến 20 học sinh của năm dân tộc là Mông, Thái, Nhắng, Dao và Lô Lô.
Hai cô giáo Thu và Kiểm đều quê ở Tiền Hải Thái Bình, bố mẹ là dân chài vùng biển. Hai cô học hết cấp 2 phổ thông trung học thì đi học một lớp sư phạm nâng cao hai năm. Tốt nghiệp ra trường, Đoàn thanh niên có phong trào “thắp lửa ánh sáng vùng cao”, họ ghi tên tham gia và mười ngày sau họ có mặt ở ngôi trường này.
Ai lên Sa Pa, nếu đến nơi xa nhất thì phải đến bản Suối Thầu. Từ chợ Sa Pa đến đây tròn 70 cây số. Người Mông, người Dao giỏi đi bộ thì mỗi ngày đi được 20 cây. Thu và Kiểm vẫn thường xuyên đi lại trên tuyến đường này. Ngôi trường của họ ở nơi hẻo lánh nhất của vùng đất du lịch không thể nói là không phù hoa đó. Ôi Sa Pa, Sa Pa... Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!
Tết năm ngoái, tôi có dịp lên Sa Pa theo lời mời của gia đình một người bạn. Anh Lai, Vụ trưởng một Vụ, chuẩn bị đi làm đại sứ một nước ở châu Âu, quyết định không ăn Tết ở Thủ đô mà đưa cả nhà đi du lịch. Họ sẽ ăn Tết ở Sa Pa. Tôi được mời đi theo  tháp tùng”. Mấy năm gần đây, hội “tay to” ở Hà Nội có “mốt” không ăn Tết ở nhà mà đóng cửa đi dã ngoại để đổi không khí, cũng tránh cả việc người ta đến lễ lạt nhờ vả nhiêu khê... Tiền nhiều chẳng làm gì. Chất lượng cuộc sống trên hết. Sống vẻ vang, chết nhẹ nhàng... Những triết lý như thế gần đây tôi được nghe nhiều ở các quan chức và giới doanh nhân thành đạt. Cũng là một “mốt”...
Chị Hỷ, vợ anh Lai (xuất thân thợ dệt) tính rất chu đáo đã mua vé tàu hoả, thuê nhà, chuẩn bị thức ăn chu đáo cho 10 ngày nghỉ Tết, mọi người chẳng ai phải mó tay vào.
- Không thiếu thứ gì! - Chị Hỷ vui vẻ bảo tôi - Chú sẽ được ăn Tết như ở nhà mình.
Gia đình anh Lai có năm người: hai vợ chồng anh, cháu Quang đang du học ở Mỹ (đại học Duke) về nghỉ Tết, cháu Vân đang học lớp 12 trường Chu Văn An Hà Nội và Yên, cô “ô-sin” người vùng đạo gốc Bùi Chu.
- Chú là nhà văn danh tiếng nhưng nghèo - Anh Lai bảo tôi - Nghề của chú chẳng phải là nghề. Đó là nghiệp chướng. Đọc, đi, viết là ba công đoạn mà tay nhà văn nào không làm được thì đừng nói gì đến có tác phẩm. Không đọc, không đi thì viết thế nào? Nhưng không có tiền thì chịu. Chuyến đi Sa Pa này vợ chồng tôi “bao” hết, chỉ mong chú viết được cái gì hay hay đóng góp cho đời. Vợ chồng tôi chọn Sa Pa cũng là vì chú! Ngày xưa, Khổng Tử du ngoạn Thái Sơn có nói được câu chí lý: “Người nhân từ yêu núi, người có chí yêu nước”. Nhà văn phải là người nhân từ, phải là người nhân nghĩa, nhân văn...
Tôi nghe. Tôi đi cũng là vì nể anh Lai. Nhân từ gì tôi không biết, ngày trẻ tôi đã ở miền núi Tây Bắc 10 năm, miền núi tôi chẳng lạ gì. Nhưng thôi, một chuyến đi du lịch, một cái Tết xa nhà cũng tốt cho tôi: ở nhà toàn khuôn mặt cũ, những đứa con tôi đã lớn, chúng không cần tôi nữa, tôi và danh tiếng hão của tôi đã là gánh nặng cho cả gia đình...
Chúng tôi lên Sa Pa vào 25 Tết. Chị Hỷ thuê một biệt thự  riêng. Mọi người ai nấy đều như chim sổ lồng: anh Lai đi thăm vùng trồng hoa với bạn học cũ là phó chủ tịch thị xã, cháu Quang và cháu Vân đi Thác Bạc - Cổng Trời, cô “ô-sin” đi lễ nhà thờ rồi đi chợ, chị Hỷ ở nhà “giữ gôn”. Còn tôi, số phận run rủi, ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi lại đến ngôi trường của hai cô giáo Thu và Kiểm.
Ở Sa Pa, có một cửa hàng bán đồ cổ nhỏ. Chủ ở đây nghe nói là một người Nhắng giàu có. Tôi rất thích vài thứ bày ở đây nhưng giá của nó khá đắt. Thấy tôi loay hoay mãi bên cửa hàng, một anh chàng lái xe ôm gạ tôi:
- Nếu ông thích mấy thứ này, tôi đưa ông vào bản Tả Van hay vào Bản Hồ, ở đấy có thể có người còn có nhiều thứ hay.
Tôi lưỡng lự. Anh ta nói thêm:
- Càng đi xa càng nhiều thứ quý.
Tôi hỏi:
- Ở Sa Pa, nơi xa nhất là đâu?
- Suối Thầu.
- Đi có khó không?
- Cũng không khó lắm.
Tôi xem đồng hồ, thấy còn sớm bèn quyết định đi chơi xa một chuyến. Anh lái xe bảo tôi:
- Chắc ông sẽ không thất vọng vì chuyến đi này.
Tôi ngồi lên xe. Chiếc xe  Min-khơ” dã chiến phóng nhanh như gió. Rừng núi đại ngàn trùng điệp mở ra trước mắt. Tôi chưa bao giờ đi một cuốc xe kinh hoàng như thế. Một bên là vực sâu, một bên là núi cao. Thỉnh thoảng, một trận mưa địa hình đột ngột trút xuống. Gió lồng lộng thổi. Tôi đã có thâm niên ở miền núi nhiều năm nhưng quang cảnh hùng tráng thế này thì không phải miền núi nào cũng có. Những viên sỏi bắn vào hai bên lốp xe rào rào. Anh lái xe ôm, chắc đã quen đưa khách đi du lịch phiêu lưu thế này, chỉ chăm chú nhìn về phía trước, tôi nghĩ nếu tôi ngã xe có khi anh ta cũng chẳng biết gì.
Đường vào Suối Thầu đi xe máy cũng hơn 5 tiếng đồng hồ. Anh lái xe ôm bảo tôi:
- Theo tôi, tốt nhất là ông nên nghỉ lại đây đêm nay. Tôi có thể chỉ cho ông vài nơi nghỉ trọ. Bọn Tây du lịch cũng hay làm thế. Bọn “gai” (tour - guide: hướng dẫn viên du lịch) người Mông vẫn dẫn họ vào đây như cơm bữa. Giá nghỉ trọ ở đây cũng mềm, chỉ khoảng độ 10 đồng bạc là cùng.
Tôi nghe lời chỉ dẫn của người lái xe ôm. Anh ta dẫn tôi vào trong ngôi trường học mà tôi đã kể ở đầu câu chuyện. Hai cô giáo rụt rè ra đón vẻ rất băn khoăn. Tôi tự giới thiệu về mình. Cô giáo thấp lùn, có khuôn mặt vuông vức tên là Kiểm mắt sáng lên:
- Em đã từng nghe đến tên ông. Nếu ông đúng là nhà văn thì em cho trọ.
Cô giáo người gày gò, trắng trẻo tên là Thu hỏi anh lái xe ôm:
- Anh về Sa Pa hay cũng nghỉ lại?
Anh này trả lời:
- Tôi về thôi. Mai lại vào. Ông nhà văn này muốn tìm đồ cổ, có gì nhờ hai cô giáo tìm giúp.
Họ chia tay nhau. Hai cô giáo dẫn tôi vào lớp học, ở đấy đang có một cô bé người Mông ngồi tập viết chữ. Hai cô giáo loay hoay kê những chiếc ghế băng sát lại, sau đó họ mang đệm và chăn bông vào. Ngay lập tức, tôi đã có một chiếc giường ngủ hảo hạng. Tôi lấy điện thoại di động gọi về Sa Pa, anh Lai và chị Hỷ trách tôi nhưng hai cháu Quang và Vân thì thích, hứa có thể sẽ vào Suối Thầu với tôi.
Đêm hôm đó, bên bếp lửa, tôi được nghe hai cô giáo Thu và Kiểm kể về cuộc đời của họ.
- Thế hai cô ở đây được mấy năm rồi?
- Được 6 năm.
- Thế Tết này các cô có về quê ăn Tết hay không?
Cô Kiểm thở dài:
- Cái Thu thì 27 Tết mới về. Còn em... Tết này chưa chắc em về được.
- Thế có năm nào các cô ăn Tết ở đây hay không?
Cô Thu bảo:
- Tết năm nào em cũng về quê ăn Tết. Em đang định bỏ việc, ở đây chán lắm. Còn cái Kiểm, sáu năm rồi, năm nào nó cũng ở lại. Năm nào nó cũng bảo: “Tết này chưa chắc em về được”.
Cô Kiểm quay mặt về phía bóng tối, giấu ánh mắt buồn buồn. Tôi không tiện hỏi, bèn quay sang nói chuyện về phong cảnh với khí hậu Sa Pa. Tôi cũng hỏi về các món đồ cổ lưu lạc ở trong các gia đình người dân tộc ở vùng cao này. Thế kỷ XVIII, Hoàng Công Chất khởi nghĩa ở đồng bằng, bị triều đình đánh đuổi lưu lạc lên đây, có nhiều gia đình thổ hào đi theo. Đây cũng là vùng buôn bán hàng lậu từ Vân Nam Trung Quốc sang. Vì thế, rất có thể có nhiều đồ cổ lưu lạc ở đâu đấy rất quý giá.
Sáng hôm sau, cô giáo Thu chuẩn bị về quê. Lớp học đã nghỉ, chỉ có vài ba đứa học sinh thỉnh thoảng đến xin bài về học trong dịp nghỉ Tết. Cô giáo Kiểm dặn dò chúng. Ngày xưa, khi còn đi dạy học ở vùng núi Tây Bắc, tôi đã hiểu tâm trạng của các thày cô giáo miền xuôi lên dạy học ở miền núi vào những ngày này. Lòng dạ rối bời cứ như lửa đốt, sắm sửa quà Tết, gói ghém đồ đạc, mong chờ kỳ lương cuối cùng trong năm, bóng dáng của người thân cứ hiện rõ dần... Ôi tuổi trẻ phiêu lưu và ngốc nghếch! Ngươi chẳng sợ gì gian khó, chẳng sợ gì cô đơn, dòng máu chảy trong huyết quản của ngươi mới mạnh làm sao, những chân trời nào và ánh mắt nào vẫy gọi? Giọng cười nào, tiếng hát nào, giấc mơ nào của ngươi cũng đều nồng nàn vẻ đẹp thuần khiết hiến tặng cho cuộc đời, cho con người... mà người thì bạc như vôi, còn đời thì ngắn... Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả, những lớp người kế tục nhau như những đợt sóng bên ngoài trùng khơi...
Cô giáo Kiểm cho một học sinh dẫn tôi đi vào trong bản. Phần lớn các nhà ở đây đều nghèo, nhiều người Mông, người Nhắng nghiện thuốc phiện. Tôi rẽ vào một ngôi nhà trên núi, thấy một người đàn ông người Mông trạc 50 tuổi đang vật vã vì đói thuốc. Chị vợ đang ngồi giã mèn mén. Thấy tôi vào, họ cũng mặc kệ. Tôi lân la hỏi chuyện người vợ. Tôi nhìn thấy trong chạn bát có một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng đen thui. Pho tượng rất lạ, đó là hình hai mặt Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi trên toà sen đặt trên đống tiền và trên đĩnh vàng, có mấy chữ Hán, tôi chỉ đọc được bốn chữ: “Quan Âm chỉ lộ”. Tượng Quan Thế Âm tôi đã thấy nhiều, nhưng tượng được đặt trên một đống tiền và vàng thì chưa từng thấy. Tôi đoán đây là tượng của một thương gia nào đó, có thể được đúc riêng nhân kỷ niệm mừng sinh nhật hoặc mừng tân gia cho ai đó. Pho tượng trông rất có thần, đường nét tinh tế, không cổ lắm nhưng rõ ràng không phải tượng mới. Trong ruột bức tượng, có lẽ người ta có yểm bùa và cho vào đó những viên sỏi kỳ lạ, lắc lên nghe lạo xạo.
Tôi hỏi người đàn bà, tỏ ý muốn mua pho tượng. Người chồng trừng mắt:
- Không bán đâu. Nó là gia bảo đấy!
Tôi không gặng hỏi, tôi biết người Mông tính rất dứt khoát. Tôi rất ái ngại vì thấy tình cảnh của gia đình này thật bi đát. Tôi lấy ra một món tiền nhỏ tặng chị vợ. Chị ta không nhận, nhìn về phía người chồng rồi nói:
- Không lấy tiền đâu! Nếu có tiền nó lại đi mua thuốc phiện.
Người chồng đứng lên, giật phắt lấy số tiền trên tay tôi, quát vợ:
- Nó cho mình thì mình lấy chứ!
Chị vợ bối rối, không biết làm sao cả. Chị ta nói với chồng:
- Hết gạo rồi! Cũng không có thịt mà ăn Tết nữa!
Người chồng không nói năng gì, khoác chiếc áo bông cũ đi ra. Chị vợ bảo tôi, vẻ bực mình thực sự:
- Ông hại nó rồi. Nó sẽ đi đến mai mới về!
Tôi nhớ mãi ánh mắt chị. Tôi đã nhìn thấy nhiều ánh mắt của những người phụ nữ đau khổ, rất nhiều ánh mắt tê dại vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà chẳng thấy gì, nó không đủ sức lưu lại hình ảnh của bất cứ ai, bất cứ vật gì. Không biết những người chồng, người con, những người thân của họ đã làm những gì để làm cho nó khô kiệt, đã làm mất hết đi vẻ tinh anh trong ánh mắt kia? Cuộc đời con người nào nhiều nhặn gì, ai trong số chúng ta đã được yêu thương, đã được vuốt ve bởi những ánh mắt chân tình tự nhiên không hề vướng bận sân si vụ lợi?
Tôi quay trở về trường học, lòng thoáng buồn. Anh lái xe hôm qua đã quay trở lại, chuẩn bị chở cô giáo Thu ra Sa Pa để mua vé tàu hoả về quê ăn Tết. Cô giáo Kiểm và cô bé học trò người Mông ra tiễn họ.
Anh lái xe hỏi tôi:
- Ông có về không?
Tôi bảo:
- Tôi muốn ở lại. Nếu được, ngày mai anh vào đón tôi.
Anh lái xe cười:
- Tôi biết ngay mà... Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người...
Buổi chiều, cô giáo Kiểm và cô học trò người Mông (sau này tôi biết tên nó là Giàng Seo Mẩy) loay hoay dọn dẹp, quét dọn xung quanh ngôi trường đón Tết. Cô giáo Kiểm mang cờ ra, treo lên cái cột ở giữa sân trường. Chập tối, lúc chúng tôi chuẩn bị ăn cơm thì có khách đến. Tôi đoán đấy là chồng hoặc người nhà cô Kiểm.Người đàn ông này tên Công, trạc 50 tuổi, dáng điệu phong trần, như ở nơi rất xa xôi đến. Cô Kiểm mừng rỡ, đun nước nóng cho ông ta ngâm chân, săn sóc ông ta từng ly từng tí.
Trong bữa cơm ông ta bảo cô giáo Kiểm:
- Anh chỉ ở đây với em đến mồng 1 Tết. Sáng mồng 2 Tết anh phải đi rồi.
Cô Kiểm bảo:
- Tuỳ anh. Anh ở bao lâu cũng được.
- Nếu anh không lên, em có về quê ăn Tết hay không?
- Em không biết. Tết này chưa chắc em về được
Ăn cơm xong, người đàn ông rủ tôi ra ngoài ngồi hút thuốc. Ông ta hỏi:
- Có phải ông là nhà văn viết cái gì đó về hoa thủy tiên phải không?
Tôi bảo:
- Phải!
Ông ta bảo:
- Tôi có nghe loáng thoáng về ông. Ông là nhà văn nổi tiếng, đã đi ra nước ngoài nhiều lần.
Tôi bảo:
- Phải!
Ông ta nói:
- Tôi cũng đã đi ra nước ngoài nhiều lần. Càng đi, càng thấy thương nước Việt Nam mình. Đất nước mình thật đẹp, dân mình thật tốt, chỉ phải cái nghèo.
Tôi hỏi ông ta về quan hệ của ông ta với cô giáo Kiểm. Ông ta thở dài:
- Đấy là người mà tôi yêu dấu vô cùng. Tôi có vợ rồi, nhà ở Lạng Sơn. Tôi biết Kiểm 3 năm nay rồi. Năm nào tôi cũng về đây ăn Tết. Kiểm đối với tôi đúng là “hồng nhan tri kỷ”. Tôi được một người như thế yêu thương thì chết cũng chẳng oán hận gì.
Tôi hỏi:
- Ông biết cô ấy trong trường hợp nào?
Ông ta bảo:
- Cũng giống như ông. Tôi đi du lịch, đúng hơn là tôi đi tìm cái chết. Hồi ấy tôi làm ăn thất bại, gia đình tan nát, tôi rất chán đời. Tôi lên Sa Pa, định trèo lên đỉnh Phan-Xi-Păng tự vẫn. Nhảy vèo xuống núi một cái là xong. Tôi gặp Kiểm, Kiểm mang tình yêu đến cho tôi. Kiểm đúng là Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn “save from misfortune and danger”. Tôi biết ơn cô ấy. Tết nào cô ấy cũng đợi tôi.
Tôi bảo:
- Ông có vẻ như một người hạnh phúc.
Ông ta bảo:
- Cám ơn ông. Cũng còn tuỳ thuộc cách nhìn. Từ khi biết Kiểm, tôi sống tốt hơn lên. Tôi yêu mến tất cả mọi người, tôi làm nhiều việc có ích cho đời. Là nhà văn, ông nên viết về tình yêu của người phụ nữ. Họ yêu thương đàn ông chúng ta, làm cho thế giới này tốt đẹp lên nhiều.
Tôi hỏi về công việc của ông ta. Ông ta nói:
- Tôi là thương nhân. Tôi buôn bán ở Hồng Kông, ở Mỹ. Có lần tôi sang cả Thuỵ Điển. Kiểm như một vị Bồ tát chỉ đường. Tôi buôn bán không phải vì tiền mà vì điều thiện, vì quan hệ với con người.
Tôi chăm chú nhìn Công, thấy ông ta là người thành thực. Tôi rất ngạc nhiên, ngẫm nghĩ mãi về hình ảnh cô Đun-xi-nê bé nhỏ, dạy học ở một nơi khỉ ho cò gáy, lại là nguồn cảm hứng cho gã Đôn Kihôtê giang hồ quốc tế, khiến ông ta làm được những việc động trời. Thế gian này thật diệu kỳ! Trong muôn thứ diệu kỳ thì tình yêu chính là điều diệu kỳ nhất.
Tôi ở Suối Thầu đến hết ngày hôm sau. Tôi được biết Giàng Seo Mẩy, cô học trò người Mông chính là con gái của hai vợ chồng người Mông mà tôi đã gặp. Mẩy ở với cô giáo Kiểm, cô bé giỏi tiếng Anh, nổi tiếng là một “gai nhí” ở khu du lịch Sa Pa.
Anh lái xe ôm vào Suối Thầu đón tôi. Ngôi biệt thự mà chị Hỷ thuê riêng đã được trang hoàng lộng lẫy.Tối hôm đó, chị Hỷ làm tiệc tất niên. Sâm-banh được mở ra, ai nấy đều vui vẻ.
Rượu ngà ngà say, anh Lai hỏi tôi:
- Chú là nhà văn, chú có biết câu “nhà văn là tai mắt của nhân dân” không? Chú viết văn, điều gì hướng đạo ngòi bút của chú?
Cháu Quang học ở đại học Duke, bang Carolina ở Mỹ, ở đấy có khoa viết văn, đào tạo các nhà văn tương lai. Rất nhiều người ở các nước khác đến đây học. Khi sang Mỹ, tôi đã từng có bài thuyết giảng ở đây. Hôm đó, tôi đã nói về sự vô minh của con người và thế giới, lòng khát khao của cá nhân tôi với cuộc sống mà Thượng đế ban cho. Hôm đó cháu Quang cũng dự. Đến hôm nay, khi nghe anh Lai hỏi, tôi bỗng nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá. Tôi nói với anh Lai rằng quả thực không phải lúc nào tôi cũng trả lời được những câu hỏi do công việc và cuộc sống đặt ra.
Anh Lai nói:
- Tôi nhớ trong Kinh thánh, Chúa đã từng mắng các văn sĩ rằng họ chỉ nhắm miếng ngon, khát khao thụ hưởng. Trong các hội đoàn, họ ngồi ghế hạng nhất... Chúa không mắng những người làm nghề nghiệp khác. Nghề của chú không phải là nghề, nó làm rối tinh trật tự.
Tôi thấy khó trả lời, miếng cơm ăn đắng ngắt. Anh Lai là nhà chính trị, anh không biết rằng tôi cũng đã từng làm nhiều nghề kiếm sống. Định mệnh của tôi không phải do tôi quyết định. Tuy nhiên, tôi không tranh cãi với anh. Hôm nay tôi là khách mời. Đầu óc tôi vẫn còn đang vấn vương hình ảnh những người sống rất giản dị ở bản Suối Thầu, họ không bao giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia? Cô giáo Kiểm, một cô gái bé nhỏ sinh ra ở biển, sống 6 năm trời với các em bé người Mông, người Nhắng, đồng lương dạy học chẳng đáng là bao; ngồi giữ ngọn lửa tình yêu cho một tay giang hồ dọc ngang trời đất. Rồi hai vợ chồng người Mông nghiện hút, họ chẳng bao giờ đi xa khỏi bản của mình...
Cháu Quang và cháu Vân cho xem những bức ảnh chụp ở bãi đá cổ Hầu Thào. Trên các hòn đá có các hình khắc kỳ dị. Ai đã viết lên đấy? Liệu thời tiền sử có một tay văn sĩ rồ dại nào đi làm chuyện ấy hay không?
Ăn xong, tôi về phòng, thấy cháu Yên, cô gái “ô-sin” đang ngồi ăn cơm thầm dưới gầm cầu thang. Tôi hỏi:
- Sao cháu không ăn cơm cùng với mọi người?
Yên nói:
- Cháu quen rồi!
Chị Hỷ đi ra bảo tôi:
- Lệ ở nhà này là thế. Tôi vốn có “tay” nuôi “ô-sin”. Dân chủ thì dân chủ. Nhưng trật tự cần hơn dân chủ.Anh yên tâm đi, một mình nó một mâm, cũng đầy đủ sơn hào hải vị.
Sáng hôm sau tôi ra chợ Sa Pa. Anh lái xe ôm hôm trước gặp tôi. Tôi vào chợ, mua một bao gạo 50 ki lô và một đùi thịt lợn, nhờ anh ta chở vào Suối Thầu tặng gia đình của Giàng Seo Mẩy. Anh lái xe cười:
- Thế này thì nhà này năm nay ăn Tết to rồi!
Tôi thấy vui vui. Chừng mấy năm nay, tôi không còn nhiều lòng ham hố “kiếm chác” cho mình, nhiều khi cho được người khác cái gì thích hơn được nhận. Tôi không giàu có nhưng cũng chẳng nghèo. Tôi không có nhiều người thân, nhiều bạn bè. Tôi đã trót rào quanh tôi hàng rào danh tiếng, đấy cũng không phải do ý thức của tôi chủ định, rất nhiều các thói đời xô đẩy khiến tôi lâm vào tình cảnh trớ trêu như thế. Nhiều khi, tôi rất cô đơn ngay giữa nhà mình. Những bạn bè cũ cũng ngại gặp tôi, tôi cố gắng phá đi mặc cảm tự ti vì không thành đạt ở trong lòng họ mà không phá được. Nhiều lần, tôi nhớ lại những ngày gian khó thuở tôi còn đi dạy học ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một thày giáo tiểu học vô danh, tôi như viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi lúc nào cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận. Đêm chẳng bao giờ là dài, ngày chẳng bao giờ là ngắn. Những ngôi sao xa xôi trên bầu trời giục giã vẫy gọi tôi. Tôi sống, tôi sống như cô giáo Kiểm, như Giàng Seo Mẩy, như người đàn bà Mông kia ở bản Suối Thầu, tôi chẳng bao giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia... Lúc ấy, tôi chưa có ý thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống cho mình.
Ngày 30 Tết, Sa Pa vắng tanh vắng ngắt. Tiết trời cuối năm lạnh giá, nhiệt độ xuống tới 5 độ. Xung quanh nhà thờ, không còn những người bán đồ lưu niệm. Đội quân lái xe ôm cũng đã về nhà. Tôi vào trong nhà thờ, thấy có một mình cháu Yên, cô gái “ô-sin” của nhà anh Lai đang quỳ gối, cầu kinh trước bàn thờ Chúa. Tôi quay ra, không muốn làm phiền cô bé ngoan đạo. Lá của những cây báng súng rơi lả tả ở trên mặt đường. Một vài ba khách du lịch nước ngoài lác đác đi bộ dọc trên hè phố. Sa Pa thật đẹp, vẻ đẹp dịu dàng. Phía xa xa, Phan-Xi-Păng, ngọn núi cao nhất được ví như nóc nhà của người Việt Nam thấp thoáng ở trong mây trắng.
Tôi đi lững thững về nhà. Trước cổng biệt thự, tôi ngạc nhiên nhìn thấy người đàn ông người Mông nghiện hút ở bản Suối Thầu mà tôi đã gặp đang ngồi ở đó. Chị Hỷ chạy ra bảo tôi:
- Người này chờ chú suốt cả buổi chiều. Tôi đuổi nhưng lão ấy không đi. Không biết là có chuyện gì.
Người đàn ông người Mông ngồi ủ rũ nhắm mắt lại như người ngủ gật. Trông thấy tôi, ông ta đứng dậy, mắt sáng hẳn lên. Ông ta hỏi tôi:
- Mày gửi cho tao gạo và thịt à?
Tôi gật đầu. Ông ta bảo tôi:
- Vợ tao rất thích. Nó cám ơn mày!
Thấy chuyện lạ, anh Lai và hai cháu Quang, cháu Vân cũng chạy ra xem. Người đàn ông người Mông lấy ra trong gùi một bọc vải nhỏ giúi vào tay tôi. Ông ta nói:
- Cái này của mày!
Nói xong ông ta quay đi, chẳng chào ai cả. Tôi nhìn theo người đàn ông người Mông bước đi loạng choạng, áy náy vì không hiểu làm sao ông ta lại có thể đi được về nhà.
Chị Hỷ đỡ lấy bọc vải ở trong tay tôi mở ra. Chúng tôi sững sờ vì đấy chính là pho tượng “Quan Âm chỉ lộ”. Tôi không thể tin ở mắt mình, càng không ngờ lại có phúc có pho tượng ấy. Mọi người trong nhà anh Lai xuýt xoa, ai cũng sờ nắn, xem xét, không muốn rời tay.
Buổi tối, dưới ánh đèn pho tượng trông thật rạng rỡ. Xem xét kỹ, ai cũng thấy rõ ràng đây là một pho tượng quý. Ở dưới đĩnh vàng, có hình Thái thượng lão quân đắp nổi và chữ “Bình an lộ”. Ý nghĩa của pho tượng là hãy đi trên con đường bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường mà Quan Thế Âm Bồ tát chỉ lối đưa đường. Anh Lai và chị Hỷ áng chừng đây là pho tượng đồng có thể có từ thời nhà Thanh Trung Quốc.Tôi không nghĩ thế bởi xem xét kiểu chữ khắc trên đó thì có thể nó có muộn hơn. Sau phong trào Ngũ tứ và Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, người ta cải cách chữ Hán. Lúc này tinh thần dân tộc của người Trung Quốc lên cao, nhiều thương gia xuất hiện cố gắng vươn ra thế giới. Rất có thể đây là pho tượng của một thương gia thành đạt thời ấy. Song, đây cũng có thể là pho tượng của một người Việt Nam nào đó làm ra. Tôi đã từng đến xem các lò đúc đồng ở Huế, ở Hà Nam, ở Hà Nội và rất thán phục nhiều tác phẩm điêu khắc kỳ khu của họ. Muốn biết rõ lai lịch của nó phải chờ khi về Hà Nội hỏi các chuyên gia. Tôi không phải là người chơi đồ cổ, những thứ thế này tôi chẳng biết gì.
Đêm 30 Tết, chúng tôi ngồi đón giao thừa. Pho tượng đặt giữa bàn ăn thắp nến. Một bầu không khí thiêng liêng và bình an làm cho ai nấy đều xúc động, muốn xích lại gần nhau hơn.
Anh Lai chúc mừng tôi. Anh nói:
- Năm mới, “quý vật gặp quý nhân”. Chắc là con đường phía trước của chú sẽ bình an may mắn.
Tôi cười như mếu. Tôi không còn trẻ. Tôi không hy vọng gì nhiều ở phía trước. Với tôi từ lâu “cuộc chơi đã kết thúc rồi”. Tôi ngẫu nhiên có pho tượng này, thực sự thâm tâm tôi cũng chẳng cầu. Phúc hoạ thường vẫn đi kèm như hình với bóng. Ý nghĩa phù du của cuộc sống cho đến một lúc nào đó ai cũng hiểu ra. Thường thường, hiểu ra thì đã muộn rồi. Trời xanh kia vẫn trớ trêu, được mất ở đời có gì quan trọng?
Tôi nói điều ấy với anh Lai, chị Hỷ. Ai cũng cười tôi, cho tôi là người “bi quan chủ nghĩa”. Ừ thôi cũng được, chúng ta hãy sống, chấp nhận nhau, yêu thương, làm sao mỗi ngày ta sống sẽ là một ngày hoan lạc, ở đấy chỉ có nụ cười thân thiết và những lời nói chân tình với nhau.
Chị Hỷ lấy tiền ra mừng tuổi mọi người. Chị nói với tôi:
- Nếu chú bán pho tượng thì tôi mua đấy!
Tôi cười. Tôi thấy khó xử. Nếu anh chị thích thì tôi tặng lại, “quý vật gặp quý nhân”, cũng là một lẽ... Anh Lai trầm ngâm, lắc đầu:
- Định mệnh của chú... Chắc là nghiệp chướng gì đây! Chúng tôi không làm thế được!
Mọi người uống rượu sâm-banh, chúc tụng nhau rồi đi ngủ. Pho tượng vẫn đặt trên bàn.
Ngày mồng 1 Tết, cả nhà anh Lai với tôi đi dạo phố phường, chúc Tết bất cứ ai gặp trên đường. Nhìn thấy gia đình anh Lai ríu rít, tôi bỗng giật mình:
- Ngày Tết là ngày đoàn tụ gia đình. Tại sao tôi lại ở đây?
Lòng tôi cồn cào như có lửa đốt.
- Tết này chưa chắc em về được...
Câu nói bâng quơ của cô giáo Kiểm văng vẳng bên tai. Tôi bật cười, nhớ lại mấy câu thơ cũ của một nhà thơ mà tôi yêu mến:
Giang hồ sót lại mình tôi
Quê người đắng khói quê người cay men...
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ai bảo mắc duyên vào bút mực
Sòng đời mang lấy số long đong
Người ta đi kiếm giàu sang cả
Mình chỉ mơ toàn chuyện viển vông
Khốn nạn, tưởng yêu thì khó chứ
Không yêu thì thực dễ như không!... (1)
Đời người cầm bút xưa nay mấy người thanh thản? Khúc đoạn trường, mấy ai hiểu rõ nỗi lòng của mỗi một người?
Chiều hôm ấy, sau bữa cơm, ai nấy đều giật mình vì phát hiện ra pho tượng “Quan Âm chỉ lộ” bỗng nhiên biến mất. Tất cả nháo nhác đi tìm. Anh Lai rất bực, đập vỡ cả lọ hoa. Không khí ngày Tết trở nên ảm đạm. Thật vô lý quá, ngôi biệt thự này có tường bao quanh, không ai ra vào. Đồ đạc trong nhà không mất thứ gì. Tại sao bức tượng không cánh mà bay?
Anh Lai gọi từng người một vào phòng cật vấn. Anh tỏ ra rất bực. Cháu Quang, cháu Vân bị xúc phạm, phát khóc, bỏ đi, tối cũng không về. Tất cả nghi ngờ đổ vào cháu Yên, cô bé “ô-sin” tội nghiệp. Cô bé gọi tên Chúa, thề thốt đủ điều. Chị Hỷ lục soát các túi đồ đạc, áo quần của nó. Tôi cố can gián nhưng không làm sao ngăn được sự giận dữ của hai vợ chồng anh Lai. Sáng mồng 2 Tết, chị Hỷ tống cổ cháu Yên, mua vé tàu hoả bắt nó trở về Hà Nội. Những ngày nghỉ Tết còn lại trở nên khó chịu vô cùng. Ngày mồng 4 Tết, anh Lai họp mọi người trong nhà, quyết định trở về Hà Nội sớm hơn dự định. Chị Hỷ thu xếp đồ đạc, sai cháu Quang đi thuê xe ô tô chở chúng tôi về Hà Nội ngay ngày hôm ấy.
Anh Lai gọi tôi vào phòng, đóng cửa lại, bảo tôi:
- Gia đình tôi thật có lỗi với chú. Sự việc xảy ra thật không hay. Pho tượng quý bị mất, tôi rất ân hận. Gia đình tôi tự thấy phải có trách nhiệm bồi thường cho chú...
Anh Lai lấy tiền ra, bảo tôi:
- Đây là 1 nghìn đô-la. Số tiền này không phải là số tiền đánh giá giá trị pho tượng. Nó có thể hơn thế, cũng có thể nó không bằng thế... Chú hiểu cho tôi, đây chỉ là một số tiền mọn nhỏ nhoi, giải quyết một sự kiện mọn không ra gì. Thực khốn nạn, tôi không biết chứng minh danh dự của gia đình tôi bằng cách thế nào với chú.Khi phải dùng hạ sách này, chính tôi, tôi cũng rất nhục. Chú hiểu cho tôi, từ xưa đến nay tôi vốn là người dứt khoát, rạch ròi, chính trực.
Tôi bảo anh Lai rằng anh không nên làm thế, rằng pho tượng này chỉ là quà tặng mà thôi, rằng tôi có được cơ duyên làm bạn với gia đình anh thì không nên chỉ vì một chuyện nhỏ con mà làm phương hại tình cảm với nhau, rằng...
Anh Lai cố ép nhưng tôi không nhận. Chúng tôi cãi nhau. Cuối cùng tôi nói, thực ra cũng vì quá bực mình với thái độ kiên quyết cố chấp của anh:
- Thế anh có bao giờ nghĩ rằng chính tôi giấu đi pho tượng này không? Có thể vì mục đích này hay mục đích khác?
Anh Lai cười nhạt, ngồi xuống ghế, lắc đầu:
- Thực ra, cũng có lúc tôi đã nghĩ thế. Xin lỗi chú, tôi cũng đã bí mật lục soát đồ đạc của chú. Do nghề nghiệp, tôi đã phải tiếp xúc, làm việc với đủ hạng người, xem xét cả khía cạnh cao thượng lẫn lưu manh trong con người họ, không trừ ai hết, kể cả người thân. Không phải tôi không tin con người, không phải tôi không nhân văn, chú đừng đánh giá tôi thấp, rằng tôi là kẻ lạnh lùng. Có những công việc không nên để cho cảm tính dự vào. Thú thực với chú, không một hạng người nào mà qua được mắt của tôi, tôi không đảm bảo 100% nhưng tới 90% thì tôi chắc chắn, rằng tôi hiểu được họ và tôi kiểm soát được họ, trừ một loại người... Chú có biết không, chính là nhà văn, chính là những người như chú...
Tôi lặng người đi, bỗng nhiên thấy trong lòng mình đắng ngắt. Anh Lai đi đi lại lại trong phòng. Anh nói với tôi:
- Tôi không hiểu nổi một người viết văn như chú. Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho mọi người dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì? Ai trao cho chú cái quyền năng ấy? Tư cách của chú tôi gạt sang bên. Tôi không hiểu sao mọi người vì nể một người như chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt... Tôi chỉ nhận ra ở chú dục vọng hão huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng hão huyền, ghê gớm ấy ở mỗi một người? Điều ấy là tốt ư? Không phải! Xấu ư? Không phải! Từ bản chất, tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú. Chú có hiểu không?
Tôi ngạc nhiên nhìn anh Lai. Hoá ra chuyến đi của tôi và gia đình anh chỉ là cái cớ để anh tìm hiểu về tôi. Tôi bật cười, hoàn toàn bất ngờ vì sự trớ trêu trong hoàn cảnh đó của mình.
Tôi dứt khoát không nhận số tiền anh Lai đưa cho. Tôi có những nguyên tắc lương tâm của tôi. Tôi nói với anh rằng thực ra số tiền này phải thuộc về người đàn ông người Mông nghiện ngập mà tôi ngẫu nhiên gặp gỡ, chính tôi cũng chẳng biết tên tuổi ông ta là gì. Nếu có số tiền ấy, ông ta cũng chỉ dùng để hút thuốc phiện mà thôi, nó cũng chẳng giúp cho ông ta cải thiện thêm gì số phận tồi tệ của mình. Câu chuyện về bức tượng “Quan Âm chỉ lộ” tốt nhất là nên chấm dứt ở đây. Tôi hy vọng tình cảm của tôi với gia đình anh không phải chỉ vì một chuyện nhỏ nhoi thế này mà sứt mẻ.
Chúng tôi về Hà Nội. Thời gian trôi đi. Tôi cũng nghĩ rằng câu chuyện không vui trong dịp Tết năm ấy rồi cũng rơi vào quên lãng, chẳng còn ai nhớ. Sáu tháng sau, tôi được biết anh Lai đã đi nhận công tác mới, cháu Quang cũng sang bên Mỹ làm việc, cháu Vân thì đi học đại học ở Anh. Một hôm, chị Hỷ đến nhà tôi chơi. Tôi rất ngạc nhiên thấy chị mang đến bức tượng “Quan Âm chỉ lộ”. Chị nói:
- Tôi đã tra hỏi con bé “ô-sin”. Tôi đã không nhầm. Nó là thủ phạm của vụ trộm này. Chú có biết không, hạng người như nó thì có dạy dỗ thế nào vẫn thế... Tôi đã đuổi việc nó rồi!
Tôi mời chị Hỷ ở lại ăn cơm nhưng chị từ chối nói là rất bận. Tôi ngồi một mình, buồn bã nâng bức tượng lên tay xem xét. Hình ảnh cô gái bé nhỏ âm thầm quỳ trước bàn thờ Chúa cầu nguyện hôm nào trong ngôi nhà thờ ở Sa Pa hiện ra ở trước mắt tôi. Tội nghiệp cho nó. Tôi không tin nó là thủ phạm. Ở bên ngoài, những chiếc lá của cây báng súng rơi lả tả trên nền sân đá.
Chị Hỷ ra về. Tôi cẩn thận đặt bức tượng Phật lên trên bàn thờ. Trên khuôn mặt Quan Thế Âm Bồ tát hình như có một giọt nước mắt trong veo lăn xuống khóc cho số phận trớ trêu của mỗi con người.
Chắc chắn là tôi sẽ còn quay trở lại Sa Pa. Phải trở lại chứ! Vì sao ư? Vì Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người!
Trên đất nước mình, đâu đâu chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người? Hãy làm cho mảnh đất này ngày càng phì nhiêu, tươi đẹp. Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ thế.
Vậy còn bạn, bạn nghĩ thế không?
Kìa Xuân đang về. Lại một cái Tết đi qua. Hãy lắng nghe âm thanh trong lòng. Phải sống! Phải sống cho ra giá trị cuộc sống con người, dù cho thế nào đi nữa...
---------------------------
(1): Thơ Nguyễn Bính.
Hà Nội, 12/2004