“Hãy đi trên
con đường bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường mà Quan Thế
Âm Bồ Tát chỉ lối đưa đường”.
(Trích
“Quan âm chỉ lộ”)
Hồ Cảnh Hưng
Chúng
ta đi vào từng cảnh một của truyện ngắn này. Niềm vui, nỗi buồn và chuyện đời
bề bộn. Những điều nhỏ cho đến những điều lớn đều khiến chúng ta xúc động, bồi
hồi. Bâng khuâng như nửa muốn dừng, nửa muốn trôi. Cũng là một dòng sông, một
khúc đoạn có tên là cuộc sống.
Chúng
ta chỉ mãi là một tha nhân như hạt bụi trên những chặn đường. Có một điều
này: Tiếng của lương tri nhắc nhở bên trong của mình: Một nỗi lòng, một tâm sự tha
nhân.
Về con người:
-
“Tôi nhớ mãi ánh mắt chị. Tôi đã nhìn thấy nhiều ánh mắt của những người
phụ nữ đau khổ, rất nhiều ánh mắt tê dại vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà chẳng
thấy gì, nó không đủ sức lưu lại hình ảnh của bất cứ ai, bất cứ vật gì”.
- “Không biết những người
chồng, người con, những người thân của họ đã làm những gì để làm cho nó khô
kiệt, đã làm mất hết đi vẻ tinh anh trong ánh mắt kia?”
- “Cuộc đời con người nào
nhiều nhặn gì, ai trong số chúng ta đã được yêu thương, đã được vuốt ve bởi
những ánh mắt chân tình tự nhiên không hề vướng bận sân si vụ lợi?”
Về dòng đời:
- “Giọng cười nào, tiếng
hát nào, giấc mơ nào của ngươi cũng đều nồng nàn vẻ đẹp thuần khiết hiến tặng
cho cuộc đời, cho con người... mà người thì bạc như vôi, còn đời thì ngắn...”.
Về tình yêu:
-
“Tôi chăm chú nhìn Công, thấy ông ta là người thành thực. Tôi rất ngạc nhiên, ngẫm nghĩ mãi về hình
ảnh cô Đun-xi-nê bé nhỏ, dạy học ở một nơi khỉ ho cò gáy, lại là nguồn cảm hứng
cho gã Đôn Kihôtê giang hồ quốc tế, khiến ông ta làm được những việc động trời”.
- “Thế gian này thật diệu
kỳ! Trong
muôn thứ diệu kỳ thì tình yêu chính là điều diệu kỳ nhất”.
Về nhà văn:
- “Chú là nhà văn, chú có
biết câu “nhà văn là tai mắt của nhân dân” không? Chú viết văn, điều gì
hướng đạo ngòi bút của chú?”
-
“Tôi bỗng nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí
dối trá. Tôi nói với
anh Lai rằng quả thực không phải lúc nào tôi cũng trả lời được những câu hỏi do
công việc và cuộc sống đặt ra”.
- Anh Lai nói: “Tôi nhớ
trong Kinh thánh, Chúa đã từng mắng các văn sĩ rằng họ chỉ nhắm miếng ngon,
khát khao thụ hưởng. Trong các hội đoàn, họ ngồi ghế hạng nhất... Chúa
không mắng những người làm nghề nghiệp khác”.
- “Nhiều lần, tôi nhớ lại
những ngày gian khó thuở tôi còn đi dạy học ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi
chỉ là một thày giáo tiểu học vô danh, tôi như viên sỏi vô danh ở trong lòng
suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi lúc nào cũng
như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận”.
- “Tôi không hiểu nổi một
người viết văn như chú. Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ
làm cho mọi người dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì?”
-
“Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt... Tôi chỉ
nhận ra ở chú dục vọng hão huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng hão huyền,
ghê gớm ấy ở mỗi một người? Điều ấy là tốt ư? Không phải! Xấu ư? Không phải!”
- “Từ bản chất,
tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú”.
Quan âm chỉ lộ:
-
Buổi tối, dưới ánh đèn pho tượng trông thật rạng rỡ. Xem xét kỹ, ai cũng thấy rõ ràng đây là
một pho tượng quý. Ở dưới đĩnh vàng, có hình Thái thượng lão quân đắp nổi và
chữ “Bình an lộ”.
-
“Ý nghĩa của pho tượng là
hãy đi trên con đường bình an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường
mà Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ lối đưa đường”.
-
Chiều hôm ấy, sau bữa cơm, ai nấy đều giật mình vì phát hiện ra pho tượng Quan Âm chỉ lộ bỗng nhiên biến mất.
Chúng
tôi về Hà Nội. Thời gian trôi đi. Tôi cũng nghĩ rằng câu chuyện không
vui trong dịp Tết năm ấy rồi cũng rơi vào quên lãng.
-
“Một hôm, chị Hỷ đến nhà tôi chơi. Tôi rất ngạc nhiên thấy chị mang đến
bức tượng Quan Âm chỉ lộ. Chị nói: “Tôi đã tra hỏi con bé “ô-sin”. Tôi đã
không nhầm. Nó là thủ phạm của vụ trộm này. Chú có biết không, hạng người như nó thì
có dạy dỗ thế nào vẫn thế... Tôi đã đuổi việc nó rồi!”
- “Tôi mời chị Hỷ ở lại ăn cơm nhưng chị từ chối nói là rất bận. Tôi
ngồi một mình, buồn bã nâng bức tượng lên tay xem xét. Hình ảnh cô gái bé nhỏ âm thầm
quỳ trước bàn thờ Chúa cầu nguyện hôm nào trong ngôi nhà thờ ở Sa Pa hiện ra ở trước mắt tôi. Tội
nghiệp cho nó. Tôi không tin nó là thủ phạm. Ở bên ngoài, những chiếc lá của cây báng
súng rơi lả tả trên nền sân đá”.
“Chị
Hỷ ra về. Tôi cẩn thận đặt bức tượng Phật lên trên bàn thờ. Trên khuôn mặt Quan Thế Âm Bồ tát hình
như có một giọt nước mắt trong veo lăn xuống khóc cho số phận trớ trêu của mỗi
con người”.
- “Chắc chắn là tôi sẽ còn
quay trở lại Sa Pa. Phải trở lại chứ! Vì sao ư? Vì Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ
người!”
“Trên
đất nước mình, đâu đâu chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người? Hãy
làm cho mảnh đất này ngày càng phì nhiêu, tươi đẹp. Tôi nghĩ thế, chân
thành nghĩ thế”.
“Kìa
Xuân đang về. Lại một cái Tết đi qua. Hãy lắng nghe âm thanh trong
lòng. Phải sống! Phải
sống cho ra giá trị cuộc sống con người, dù cho thế nào đi nữa...”
Thật bình ổn, thật cao
thượng, thật thâm trầm, thật nhân từ, thật tốt đẹp!
“Quan âm chỉ lộ”, tâm sự
của một tha nhân, của một nhà văn, một tấm lòng…
(Ảnh của họa sỹ Nguyễn Đình Đăng) |
QUAN ÂM CHỈ LỘ
Nguyễn Huy Thiệp
Ngôi trường
vùng cao ở lưng chừng đồi, đơn sơ một ngôi nhà gianh vách đất, một nửa là lớp
học, một nửa là chỗ ở của hai cô giáo Thu và Kiểm. Lớp học thường xuyên xê dịch có từ 7 đến 20 học sinh
của năm dân tộc là Mông, Thái, Nhắng, Dao và Lô Lô.
Hai cô giáo
Thu và Kiểm đều quê ở Tiền Hải Thái Bình, bố mẹ là dân chài vùng biển. Hai
cô học hết cấp 2 phổ thông trung học thì đi học một lớp sư phạm nâng cao hai
năm. Tốt nghiệp ra trường, Đoàn
thanh niên có phong trào “thắp lửa ánh sáng vùng cao”, họ ghi tên tham gia và
mười ngày sau họ có mặt ở ngôi trường này.
Ai lên Sa Pa , nếu đến nơi xa nhất thì phải đến bản Suối
Thầu. Từ chợ Sa Pa đến đây tròn 70 cây số. Người Mông, người Dao giỏi đi
bộ thì mỗi ngày đi được 20 cây. Thu và Kiểm vẫn thường xuyên đi lại trên tuyến đường
này. Ngôi trường của họ ở nơi hẻo lánh nhất của vùng đất du lịch không thể
nói là không phù hoa đó. Ôi Sa Pa, Sa Pa. .. Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!
Tết năm ngoái, tôi có dịp lên Sa Pa theo lời mời của gia đình một người bạn. Anh Lai, Vụ trưởng một Vụ,
chuẩn bị đi làm đại sứ một nước ở châu Âu, quyết định không ăn Tết ở Thủ đô mà
đưa cả nhà đi du lịch. Họ sẽ ăn Tết ở Sa Pa. Tôi được mời đi theo
“tháp tùng”. Mấy năm gần đây, hội “tay to” ở Hà Nội có
“mốt” không ăn Tết ở nhà mà đóng cửa đi dã ngoại để đổi không khí, cũng tránh
cả việc người ta đến lễ lạt nhờ vả nhiêu khê... Tiền nhiều chẳng làm gì. Chất lượng cuộc
sống trên hết. Sống vẻ vang, chết
nhẹ nhàng... Những
triết lý như thế gần đây tôi được nghe nhiều ở các quan chức và giới doanh nhân
thành đạt. Cũng là một “mốt”...
Chị Hỷ, vợ anh Lai (xuất thân thợ dệt)
tính rất chu đáo đã mua vé tàu hoả, thuê nhà, chuẩn bị thức ăn chu đáo cho 10
ngày nghỉ Tết, mọi người chẳng ai phải mó tay vào.
- Không thiếu thứ gì! - Chị Hỷ vui vẻ
bảo tôi - Chú sẽ được ăn Tết như ở nhà mình.
Gia đình anh Lai có năm người: hai vợ
chồng anh, cháu Quang đang du học ở Mỹ (đại học Duke) về nghỉ Tết, cháu Vân
đang học lớp 12 trường Chu Văn An Hà Nội và Yên, cô “ô-sin” người vùng đạo gốc
Bùi Chu.
- Chú là nhà văn danh tiếng nhưng nghèo
- Anh Lai bảo tôi - Nghề của chú chẳng phải là nghề. Đó là nghiệp
chướng. Đọc, đi, viết là ba công
đoạn mà tay nhà văn nào không làm được thì đừng nói gì đến có tác
phẩm. Không
đọc, không đi thì viết thế nào? Nhưng không có tiền thì chịu. Chuyến đi Sa Pa này vợ chồng tôi “bao” hết, chỉ mong
chú viết được cái gì hay hay đóng góp cho đời. Vợ chồng tôi chọn Sa Pa cũng là vì chú! Ngày xưa, Khổng Tử du ngoạn Thái Sơn có nói được câu
chí lý: “Người nhân từ yêu núi, người có chí yêu nước”. Nhà văn phải là người
nhân từ, phải là người nhân nghĩa, nhân văn...
Tôi
nghe. Tôi đi cũng là vì nể anh Lai. Nhân từ gì tôi không biết, ngày
trẻ tôi đã ở miền núi Tây Bắc 10 năm, miền núi tôi chẳng lạ gì. Nhưng thôi, một chuyến đi du lịch, một cái Tết xa nhà
cũng tốt cho tôi: ở nhà toàn khuôn mặt cũ, những đứa con tôi đã lớn, chúng
không cần tôi nữa, tôi và danh tiếng hão của tôi đã là gánh nặng cho cả gia
đình...
Chúng tôi lên Sa Pa vào 25 Tết. Chị Hỷ thuê một biệt thự riêng. Mọi người ai nấy đều như chim sổ lồng: anh Lai đi
thăm vùng trồng hoa với bạn học cũ là phó chủ tịch thị xã, cháu Quang và cháu
Vân đi Thác Bạc - Cổng Trời, cô “ô-sin” đi lễ nhà thờ rồi đi chợ, chị Hỷ ở nhà “giữ
gôn”. Còn
tôi, số phận run rủi, ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi lại đến ngôi trường của
hai cô giáo Thu và Kiểm.
Ở Sa Pa , có một cửa hàng bán đồ cổ nhỏ. Chủ
ở đây nghe nói là một người Nhắng giàu có. Tôi rất thích vài thứ bày ở đây
nhưng giá của nó khá đắt. Thấy tôi
loay hoay mãi bên cửa hàng, một anh chàng lái xe ôm gạ tôi:
- Nếu ông thích mấy thứ này, tôi đưa
ông vào bản Tả Van hay vào Bản Hồ, ở đấy có thể có người còn có nhiều thứ hay.
Tôi lưỡng
lự. Anh ta nói thêm:
- Càng đi xa càng nhiều thứ quý.
Tôi hỏi:
- Ở Sa Pa , nơi xa nhất là đâu?
- Suối Thầu.
- Đi có khó
không?
- Cũng không khó lắm.
Tôi xem đồng
hồ, thấy còn sớm bèn quyết định đi chơi xa một chuyến. Anh lái xe bảo
tôi:
- Chắc ông sẽ không thất vọng vì chuyến
đi này.
Tôi ngồi lên xe. Chiếc xe
“Min-khơ”
dã chiến phóng nhanh như gió. Rừng núi đại ngàn trùng điệp mở ra trước mắt. Tôi chưa bao giờ đi một cuốc xe kinh hoàng như thế. Một bên là vực sâu, một bên là núi
cao. Thỉnh thoảng, một trận mưa địa hình đột ngột trút xuống. Gió
lồng lộng thổi. Tôi đã có thâm niên
ở miền núi nhiều năm nhưng quang cảnh hùng tráng thế này thì không phải miền
núi nào cũng có. Những viên sỏi bắn vào hai bên lốp xe rào rào. Anh lái xe ôm,
chắc đã quen đưa khách đi du lịch phiêu lưu thế này, chỉ chăm chú nhìn về phía
trước, tôi nghĩ nếu tôi ngã xe có khi anh ta cũng chẳng biết gì.
Đường vào Suối Thầu đi xe máy cũng hơn 5 tiếng đồng hồ. Anh lái xe ôm bảo tôi:
- Theo tôi, tốt nhất là ông nên nghỉ
lại đây đêm nay. Tôi
có thể chỉ cho ông vài nơi nghỉ trọ. Bọn
Tây du lịch cũng hay làm thế. Bọn “gai” (tour - guide: hướng dẫn viên du lịch)
người Mông vẫn dẫn họ vào đây như cơm bữa. Giá nghỉ trọ ở đây cũng mềm, chỉ khoảng độ 10
đồng bạc là cùng.
Tôi nghe lời chỉ dẫn của người lái xe ôm. Anh ta dẫn tôi vào trong ngôi trường học mà tôi đã kể ở đầu câu
chuyện. Hai cô giáo rụt rè ra đón vẻ
rất băn khoăn. Tôi
tự giới thiệu về mình. Cô giáo thấp
lùn, có khuôn mặt vuông vức tên là Kiểm mắt sáng lên:
- Em đã từng nghe đến tên ông. Nếu ông đúng là nhà
văn thì em cho trọ.
Cô giáo người gày gò, trắng trẻo tên là
Thu hỏi anh lái xe ôm:
- Anh về Sa Pa hay cũng nghỉ lại?
Anh này trả lời:
- Tôi về thôi. Mai lại vào. Ông
nhà văn này muốn tìm đồ cổ, có gì nhờ hai cô giáo tìm giúp.
Họ chia tay nhau. Hai cô giáo dẫn tôi vào lớp học, ở đấy đang có một cô bé người
Mông ngồi tập viết chữ. Hai cô giáo loay hoay kê những chiếc ghế băng sát lại,
sau đó họ mang đệm và chăn bông vào. Ngay lập tức, tôi đã có một chiếc giường ngủ
hảo hạng. Tôi lấy điện thoại di động
gọi về Sa Pa, anh Lai và chị Hỷ trách tôi nhưng hai cháu Quang và Vân thì
thích, hứa có thể sẽ vào Suối Thầu với tôi.
Đêm hôm đó,
bên bếp lửa, tôi được nghe hai cô giáo Thu và Kiểm kể về cuộc đời của họ.
- Thế hai cô ở đây được mấy năm rồi?
- Được 6 năm.
- Thế Tết này các cô có về quê ăn Tết hay không?
Cô Kiểm thở dài:
- Cái Thu thì 27 Tết mới về. Còn em... Tết này chưa chắc em
về được.
- Thế có năm nào các cô ăn Tết ở đây hay không?
Cô Thu bảo:
- Tết năm nào em cũng về quê ăn Tết. Em đang định bỏ việc, ở đây chán lắm. Còn cái Kiểm, sáu năm
rồi, năm nào nó cũng ở lại. Năm nào
nó cũng bảo: “Tết này chưa chắc em về được”.
Cô Kiểm quay
mặt về phía bóng tối, giấu ánh mắt buồn buồn. Tôi không tiện hỏi, bèn quay sang nói chuyện về phong
cảnh với khí hậu Sa Pa. Tôi cũng hỏi về các món đồ cổ lưu lạc ở trong các gia
đình người dân tộc ở vùng cao này. Thế kỷ XVIII, Hoàng Công Chất khởi nghĩa ở
đồng bằng, bị triều đình đánh đuổi lưu lạc lên đây, có nhiều gia đình thổ hào
đi theo. Đây cũng là vùng buôn bán hàng lậu từ Vân Nam Trung
Quốc sang. Vì
thế, rất có thể có nhiều đồ cổ lưu lạc ở đâu đấy rất quý giá.
Sáng hôm sau,
cô giáo Thu chuẩn bị về quê. Lớp học
đã nghỉ, chỉ có vài ba đứa học sinh thỉnh thoảng đến xin bài về học trong dịp
nghỉ Tết. Cô giáo Kiểm dặn dò chúng. Ngày xưa, khi còn đi dạy học ở vùng núi Tây
Bắc, tôi đã hiểu tâm trạng của các thày cô giáo miền xuôi lên dạy học ở miền
núi vào những ngày này. Lòng dạ rối
bời cứ như lửa đốt, sắm sửa quà Tết, gói ghém đồ đạc, mong chờ kỳ lương cuối
cùng trong năm, bóng dáng của người thân cứ hiện rõ dần... Ôi tuổi trẻ phiêu
lưu và ngốc nghếch! Ngươi chẳng sợ gì gian khó, chẳng sợ gì cô đơn, dòng máu
chảy trong huyết quản của ngươi mới mạnh làm sao, những chân trời nào và ánh
mắt nào vẫy gọi? Giọng cười nào, tiếng hát nào, giấc mơ nào của ngươi cũng đều
nồng nàn vẻ đẹp thuần khiết hiến tặng cho cuộc đời, cho con người... mà người
thì bạc như vôi, còn đời thì ngắn... Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả, những lớp
người kế tục nhau như những đợt sóng bên ngoài trùng khơi...
Cô giáo Kiểm
cho một học sinh dẫn tôi đi vào trong bản. Phần lớn các nhà ở đây đều
nghèo, nhiều người Mông, người Nhắng nghiện thuốc phiện. Tôi rẽ vào một
ngôi nhà trên núi, thấy một người đàn ông người Mông trạc 50 tuổi đang vật vã
vì đói thuốc. Chị vợ đang ngồi giã mèn mén. Thấy tôi vào,
họ cũng mặc kệ. Tôi lân la hỏi chuyện người vợ. Tôi nhìn thấy trong
chạn bát có một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng đen thui. Pho tượng rất lạ, đó là hình hai mặt Quan Thế Âm Bồ
Tát ngồi trên toà sen đặt trên đống tiền và trên đĩnh vàng, có mấy chữ Hán, tôi
chỉ đọc được bốn chữ: “Quan Âm chỉ lộ”. Tượng Quan Thế Âm tôi đã thấy nhiều,
nhưng tượng được đặt trên một đống tiền và vàng thì chưa từng thấy. Tôi
đoán đây là tượng của một thương gia nào đó, có thể được đúc riêng nhân kỷ niệm
mừng sinh nhật hoặc mừng tân gia cho ai đó. Pho tượng trông rất có thần, đường nét tinh tế, không cổ lắm nhưng rõ
ràng không phải tượng mới. Trong ruột bức tượng, có lẽ người ta có yểm bùa và cho vào đó
những viên sỏi kỳ lạ, lắc lên nghe lạo xạo.
Tôi hỏi người
đàn bà, tỏ ý muốn mua pho tượng. Người
chồng trừng mắt:
- Không bán đâu. Nó là gia bảo đấy!
Tôi không
gặng hỏi, tôi biết người Mông tính rất dứt khoát. Tôi rất ái ngại vì thấy
tình cảnh của gia đình này thật bi đát. Tôi lấy ra một món tiền nhỏ tặng
chị vợ. Chị ta không nhận, nhìn về
phía người chồng rồi nói:
- Không lấy tiền đâu! Nếu có tiền nó lại đi
mua thuốc phiện.
Người chồng đứng lên, giật phắt lấy số
tiền trên tay tôi, quát vợ:
- Nó cho mình thì mình lấy chứ!
Chị vợ bối
rối, không biết làm sao cả. Chị ta
nói với chồng:
- Hết gạo rồi! Cũng không có thịt mà ăn Tết nữa!
Người chồng
không nói năng gì, khoác chiếc áo bông cũ đi ra. Chị vợ bảo tôi, vẻ bực mình thực sự:
- Ông hại nó rồi. Nó sẽ đi đến mai mới
về!
Tôi nhớ mãi
ánh mắt chị. Tôi đã nhìn thấy nhiều ánh mắt của những người phụ nữ đau
khổ, rất nhiều ánh mắt tê dại vô hồn, vô ảnh, ta soi vào mà chẳng thấy gì, nó
không đủ sức lưu lại hình ảnh của bất cứ ai, bất cứ vật gì. Không biết những người chồng, người con, những người
thân của họ đã làm những gì để làm cho nó khô kiệt, đã làm mất hết đi vẻ tinh
anh trong ánh mắt kia? Cuộc đời con người nào nhiều nhặn gì, ai trong số
chúng ta đã được yêu thương, đã được vuốt ve bởi những ánh mắt chân tình tự
nhiên không hề vướng bận sân si vụ lợi?
Tôi quay trở
về trường học, lòng thoáng buồn. Anh
lái xe hôm qua đã quay trở lại, chuẩn bị chở cô giáo Thu ra Sa Pa để mua vé tàu hoả về quê ăn Tết. Cô giáo Kiểm và cô bé
học trò người Mông ra tiễn họ.
Anh lái xe hỏi tôi:
- Ông có về không?
Tôi bảo:
- Tôi muốn ở lại. Nếu được, ngày mai anh
vào đón tôi.
Anh lái xe cười:
- Tôi biết ngay mà... Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người...
Buổi chiều, cô giáo Kiểm và cô học trò
người Mông (sau này tôi biết tên nó là Giàng Seo Mẩy) loay hoay dọn dẹp, quét
dọn xung quanh ngôi trường đón Tết. Cô giáo Kiểm mang cờ ra, treo lên cái cột ở
giữa sân trường. Chập tối, lúc chúng tôi chuẩn bị ăn cơm thì có khách đến. Tôi đoán đấy là chồng hoặc người nhà cô Kiểm.Người đàn ông này
tên Công, trạc 50 tuổi, dáng điệu phong trần, như ở nơi rất xa xôi đến. Cô Kiểm mừng rỡ, đun nước nóng cho ông ta ngâm chân,
săn sóc ông ta từng ly từng tí.
Trong bữa cơm ông ta bảo cô giáo Kiểm:
- Anh chỉ ở đây với em đến mồng 1 Tết.
Sáng mồng 2 Tết anh phải đi rồi.
Cô Kiểm bảo:
- Tuỳ anh. Anh ở bao lâu cũng
được.
- Nếu anh không lên, em có về quê ăn Tết hay không?
- Em không biết. Tết này chưa chắc em
về được
Ăn cơm xong, người đàn ông rủ tôi ra ngoài ngồi hút
thuốc. Ông ta hỏi:
- Có phải ông là nhà văn viết cái gì đó
về hoa thủy tiên phải không?
Tôi bảo:
- Phải!
Ông ta bảo:
- Tôi có nghe loáng thoáng về ông. Ông là nhà văn nổi
tiếng, đã đi ra nước ngoài nhiều lần.
Tôi bảo:
- Phải!
Ông ta nói:
- Tôi cũng đã đi ra nước ngoài nhiều
lần. Càng
đi, càng thấy thương nước Việt Nam mình. Đất nước mình
thật đẹp, dân mình thật tốt, chỉ phải cái nghèo.
Tôi hỏi ông
ta về quan hệ của ông ta với cô giáo Kiểm. Ông ta thở dài:
- Đấy là
người mà tôi yêu dấu vô cùng. Tôi có vợ rồi, nhà ở Lạng Sơn. Tôi biết Kiểm
3 năm nay rồi. Năm nào tôi cũng về
đây ăn Tết. Kiểm đối với tôi đúng là “hồng nhan tri kỷ”. Tôi được một người như
thế yêu thương thì chết cũng chẳng oán hận gì.
Tôi hỏi:
- Ông biết cô ấy trong trường hợp nào?
Ông ta bảo:
- Cũng giống như ông. Tôi đi du lịch, đúng
hơn là tôi đi tìm cái chết. Hồi ấy tôi làm ăn thất bại, gia đình tan nát,
tôi rất chán đời. Tôi lên Sa Pa , định trèo lên đỉnh Phan-Xi-Păng tự vẫn. Nhảy vèo xuống
núi một cái là xong. Tôi gặp Kiểm, Kiểm mang tình yêu đến cho tôi. Kiểm đúng là Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn “save from
misfortune and danger”. Tôi biết ơn cô ấy. Tết nào cô ấy cũng đợi tôi.
Tôi bảo:
- Ông có vẻ như một người hạnh phúc.
Ông ta bảo:
- Cám ơn ông. Cũng còn tuỳ thuộc
cách nhìn. Từ khi biết Kiểm, tôi sống tốt hơn lên. Tôi yêu mến tất cả
mọi người, tôi làm nhiều việc có ích cho đời. Là nhà văn, ông nên viết về
tình yêu của người phụ nữ. Họ yêu thương đàn ông chúng ta, làm cho thế
giới này tốt đẹp lên nhiều.
Tôi hỏi về
công việc của ông ta. Ông ta nói:
- Tôi là thương nhân. Tôi buôn bán ở
Hồng Kông, ở Mỹ. Có lần tôi sang cả Thuỵ Điển. Kiểm như một vị Bồ tát chỉ
đường. Tôi buôn bán không phải vì tiền mà vì điều thiện, vì quan hệ với
con người.
Tôi chăm chú
nhìn Công, thấy ông ta là người thành thực. Tôi rất ngạc nhiên, ngẫm nghĩ mãi về hình ảnh cô Đun-xi-nê bé nhỏ, dạy
học ở một nơi khỉ ho cò gáy, lại là nguồn cảm hứng cho gã Đôn Kihôtê giang hồ
quốc tế, khiến ông ta làm được những việc động trời. Thế gian này thật diệu kỳ! Trong muôn thứ diệu kỳ
thì tình yêu chính là điều diệu kỳ nhất.
Tôi ở Suối
Thầu đến hết ngày hôm sau. Tôi được
biết Giàng Seo Mẩy, cô học trò người Mông chính là con gái của hai vợ chồng
người Mông mà tôi đã gặp. Mẩy ở với cô giáo Kiểm, cô bé giỏi tiếng Anh, nổi
tiếng là một “gai nhí” ở khu du lịch Sa Pa.
Anh lái xe ôm vào Suối Thầu đón tôi. Ngôi biệt thự mà chị Hỷ thuê riêng đã được
trang hoàng lộng lẫy.Tối hôm đó, chị Hỷ làm tiệc tất niên. Sâm-banh được
mở ra, ai nấy đều vui vẻ.
Rượu ngà ngà say, anh Lai hỏi tôi:
- Chú là nhà văn, chú có biết câu “nhà văn
là tai mắt của nhân dân” không? Chú viết văn, điều gì hướng đạo ngòi bút của chú?
Cháu Quang học ở đại học Duke, bang Carolina ở Mỹ, ở đấy có khoa viết văn, đào tạo các nhà văn
tương lai. Rất
nhiều người ở các nước khác đến đây học. Khi sang Mỹ, tôi đã từng có bài thuyết giảng ở đây. Hôm đó, tôi đã nói về
sự vô minh của con người và thế giới, lòng khát khao của cá nhân tôi với cuộc
sống mà Thượng đế ban cho. Hôm đó cháu Quang cũng dự. Đến hôm nay,
khi nghe anh Lai hỏi, tôi bỗng nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và
phù phiếm, thậm chí dối trá. Tôi nói
với anh Lai rằng quả thực không phải lúc nào tôi cũng trả lời được những câu
hỏi do công việc và cuộc sống đặt ra.
Anh Lai nói:
- Tôi nhớ trong Kinh thánh, Chúa đã
từng mắng các văn sĩ rằng họ chỉ nhắm miếng ngon, khát khao thụ hưởng. Trong
các hội đoàn, họ ngồi ghế hạng nhất... Chúa không mắng những người làm nghề nghiệp
khác. Nghề của chú không phải là nghề, nó làm rối tinh trật tự.
Tôi thấy khó trả lời, miếng cơm ăn đắng ngắt. Anh Lai là nhà chính trị, anh không biết rằng
tôi cũng đã từng làm nhiều nghề kiếm sống. Định mệnh của tôi không phải do tôi quyết định. Tuy nhiên, tôi không
tranh cãi với anh. Hôm nay tôi là khách mời. Đầu óc tôi vẫn còn đang vấn vương hình ảnh những người
sống rất giản dị ở bản Suối Thầu, họ không bao giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế
này, tại sao thế kia? Cô giáo Kiểm, một cô gái bé nhỏ sinh ra ở biển, sống
6 năm trời với các em bé người Mông, người Nhắng, đồng lương dạy học chẳng đáng
là bao; ngồi giữ ngọn lửa tình yêu cho một tay giang hồ dọc ngang trời đất. Rồi
hai vợ chồng người Mông nghiện hút, họ chẳng bao giờ đi xa khỏi bản của mình...
Cháu Quang và
cháu Vân cho xem những bức ảnh chụp ở bãi đá cổ Hầu Thào. Trên các hòn đá
có các hình khắc kỳ dị. Ai đã viết lên đấy? Liệu thời tiền sử có một tay văn sĩ rồ dại nào đi làm chuyện ấy hay không?
Ăn xong, tôi về phòng, thấy cháu Yên, cô gái “ô-sin” đang
ngồi ăn cơm thầm dưới gầm cầu thang. Tôi hỏi:
- Sao cháu không ăn cơm cùng với mọi người?
Yên nói:
- Cháu quen rồi!
Chị Hỷ đi ra bảo tôi:
- Lệ ở nhà này là thế. Tôi vốn có “tay” nuôi “ô-sin”. Dân
chủ thì dân chủ. Nhưng trật tự cần hơn dân chủ.Anh yên tâm đi, một mình nó
một mâm, cũng đầy đủ sơn hào hải vị.
Sáng hôm sau tôi ra chợ Sa Pa. Anh lái xe ôm hôm trước gặp tôi. Tôi vào chợ, mua một bao gạo 50 ki lô
và một đùi thịt lợn, nhờ anh ta chở vào Suối Thầu tặng gia đình của Giàng Seo
Mẩy. Anh lái xe cười:
- Thế này thì nhà này năm nay ăn Tết to rồi!
Tôi thấy vui
vui. Chừng mấy năm nay, tôi không
còn nhiều lòng ham hố “kiếm chác” cho mình, nhiều khi cho được người khác cái
gì thích hơn được nhận. Tôi không giàu có nhưng cũng chẳng nghèo. Tôi không có nhiều người thân, nhiều bạn bè. Tôi đã
trót rào quanh tôi hàng rào danh tiếng, đấy cũng không phải do ý thức của tôi
chủ định, rất nhiều các thói đời xô đẩy khiến tôi lâm vào tình cảnh trớ trêu
như thế. Nhiều
khi, tôi rất cô đơn ngay giữa nhà mình. Những bạn bè cũ cũng ngại gặp tôi, tôi cố gắng phá đi mặc cảm tự ti vì
không thành đạt ở trong lòng họ mà không phá được. Nhiều lần, tôi nhớ lại những
ngày gian khó thuở tôi còn đi dạy học ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ
là một thày giáo tiểu học vô danh, tôi như viên sỏi vô danh ở trong lòng suối
vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi lúc nào cũng như có
một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận. Đêm chẳng bao giờ là
dài, ngày chẳng bao giờ là ngắn. Những ngôi sao xa xôi trên bầu trời giục
giã vẫy gọi tôi. Tôi sống, tôi sống
như cô giáo Kiểm, như Giàng Seo Mẩy, như người đàn bà Mông kia ở bản Suối Thầu,
tôi chẳng bao giờ đặt ra câu hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia... Lúc ấy, tôi chưa có ý
thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống cho mình.
Ngày 30 Tết, Sa Pa vắng tanh vắng ngắt. Tiết trời cuối năm lạnh giá, nhiệt độ xuống tới 5 độ. Xung
quanh nhà thờ, không còn những người bán đồ lưu niệm. Đội quân lái xe ôm
cũng đã về nhà. Tôi vào trong nhà thờ, thấy có một mình cháu Yên, cô gái “ô-sin”
của nhà anh Lai đang quỳ gối, cầu kinh trước bàn thờ Chúa. Tôi quay ra, không
muốn làm phiền cô bé ngoan đạo. Lá của những cây báng súng rơi lả tả ở trên mặt
đường. Một
vài ba khách du lịch nước ngoài lác đác đi bộ dọc trên hè phố. Sa Pa thật
đẹp, vẻ đẹp dịu dàng. Phía xa xa, Phan-Xi-Păng, ngọn núi cao nhất được ví
như nóc nhà của người Việt Nam thấp
thoáng ở trong mây trắng.
Tôi đi lững
thững về nhà. Trước cổng biệt thự, tôi ngạc nhiên nhìn thấy người đàn ông
người Mông nghiện hút ở bản Suối Thầu mà tôi đã gặp đang ngồi ở đó. Chị Hỷ chạy ra bảo tôi:
- Người này chờ chú suốt cả buổi chiều. Tôi đuổi nhưng lão ấy
không đi. Không biết là có chuyện gì.
Người đàn ông người Mông ngồi ủ rũ nhắm mắt lại như người ngủ gật. Trông thấy tôi, ông ta
đứng dậy, mắt sáng hẳn lên. Ông ta hỏi tôi:
- Mày gửi cho tao gạo và thịt à?
Tôi gật
đầu. Ông ta bảo tôi:
- Vợ tao rất thích. Nó cám ơn mày!
Thấy chuyện
lạ, anh Lai và hai cháu Quang, cháu Vân cũng chạy ra xem. Người đàn ông người Mông lấy ra trong gùi một bọc vải
nhỏ giúi vào tay tôi. Ông ta nói:
- Cái này của mày!
Nói xong ông
ta quay đi, chẳng chào ai cả. Tôi
nhìn theo người đàn ông người Mông bước đi loạng choạng, áy náy
vì không hiểu làm sao ông ta lại có thể đi được về nhà.
Chị Hỷ đỡ lấy bọc vải ở trong tay tôi mở ra. Chúng tôi sững sờ vì đấy chính là pho tượng “Quan
Âm chỉ lộ”. Tôi không thể tin ở mắt mình, càng không ngờ lại có phúc
có pho tượng ấy. Mọi người trong nhà
anh Lai xuýt xoa, ai cũng sờ nắn, xem xét, không muốn rời tay.
Buổi tối,
dưới ánh đèn pho tượng trông thật rạng rỡ. Xem xét kỹ, ai cũng thấy rõ ràng đây là một pho tượng quý. Ở dưới đĩnh vàng, có
hình Thái thượng lão quân đắp nổi và chữ “Bình an lộ”. Ý nghĩa của pho tượng là hãy đi trên con đường bình
an, lắng nghe âm thanh trong lòng, đấy là con đường mà Quan Thế Âm Bồ tát chỉ
lối đưa đường. Anh
Lai và chị Hỷ áng chừng đây là pho tượng đồng có thể có từ thời nhà Thanh Trung
Quốc.Tôi không nghĩ thế bởi xem xét kiểu chữ khắc trên đó thì có thể nó có muộn
hơn. Sau phong trào Ngũ tứ và Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, người ta cải
cách chữ Hán. Lúc này tinh thần dân tộc của người Trung Quốc lên cao,
nhiều thương gia xuất hiện cố gắng vươn ra thế giới. Rất có thể đây là pho
tượng của một thương gia thành đạt thời ấy. Song, đây cũng có thể là pho
tượng của một người Việt Nam nào
đó làm ra. Tôi đã từng đến xem các
lò đúc đồng ở Huế, ở Hà Nam, ở Hà Nội và rất thán phục nhiều tác phẩm điêu khắc
kỳ khu của họ. Muốn
biết rõ lai lịch của nó phải chờ khi về Hà Nội hỏi các chuyên gia. Tôi
không phải là người chơi đồ cổ, những thứ thế này tôi chẳng biết gì.
Đêm 30 Tết,
chúng tôi ngồi đón giao thừa. Pho
tượng đặt giữa bàn ăn thắp nến. Một bầu không khí thiêng liêng và bình an làm cho ai nấy đều xúc động, muốn xích lại gần nhau
hơn.
Anh Lai chúc
mừng tôi. Anh nói:
- Năm mới, “quý vật gặp quý nhân”. Chắc
là con đường phía trước của chú sẽ bình an may
mắn.
Tôi cười như
mếu. Tôi không còn trẻ. Tôi không hy vọng gì nhiều ở phía
trước. Với tôi từ lâu “cuộc chơi đã kết thúc rồi”. Tôi ngẫu nhiên có
pho tượng này, thực sự thâm tâm tôi cũng chẳng cầu. Phúc hoạ thường vẫn đi
kèm như hình với bóng. Ý nghĩa phù du của cuộc sống cho đến một lúc nào đó
ai cũng hiểu ra. Thường thường, hiểu ra thì đã muộn rồi. Trời xanh kia vẫn
trớ trêu, được mất ở đời có gì quan trọng?
Tôi nói điều
ấy với anh Lai, chị Hỷ. Ai cũng cười tôi, cho tôi là người “bi quan chủ nghĩa”. Ừ
thôi cũng được, chúng ta hãy sống, chấp nhận nhau, yêu thương, làm sao mỗi ngày
ta sống sẽ là một ngày hoan lạc, ở đấy chỉ có nụ cười thân thiết và những lời
nói chân tình với nhau.
Chị Hỷ lấy
tiền ra mừng tuổi mọi người. Chị nói
với tôi:
- Nếu chú bán pho tượng thì tôi mua
đấy!
Tôi
cười. Tôi thấy khó xử. Nếu anh
chị thích thì tôi tặng lại, “quý vật gặp quý nhân”, cũng là một lẽ... Anh Lai
trầm ngâm, lắc đầu:
- Định mệnh của chú... Chắc là nghiệp
chướng gì đây! Chúng tôi không làm thế được!
Mọi người
uống rượu sâm-banh, chúc tụng nhau rồi đi ngủ. Pho tượng vẫn đặt trên bàn.
Ngày mồng 1
Tết, cả nhà anh Lai với tôi đi dạo phố phường, chúc Tết bất cứ ai gặp trên
đường. Nhìn thấy gia đình anh Lai
ríu rít, tôi bỗng giật mình:
- Ngày Tết là
ngày đoàn tụ gia đình. Tại sao tôi lại ở đây?
Lòng tôi cồn
cào như có lửa đốt.
- Tết này chưa chắc em về được...
Câu nói bâng quơ của cô giáo Kiểm văng
vẳng bên tai. Tôi bật cười, nhớ lại mấy câu thơ cũ của một nhà thơ
mà tôi yêu mến:
Giang hồ sót lại mình tôi
Quê người đắng khói quê người cay men...
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ai bảo mắc duyên vào bút mực
Sòng đời mang lấy số long đong
Người ta đi kiếm giàu sang cả
Mình chỉ mơ toàn chuyện viển
vông
Khốn nạn, tưởng yêu thì khó
chứ
Không yêu thì thực dễ như không!... (1)
Đời người cầm
bút xưa nay mấy người thanh thản? Khúc đoạn trường, mấy ai hiểu rõ nỗi
lòng của mỗi một người?
Chiều hôm ấy,
sau bữa cơm, ai nấy đều giật mình vì phát hiện ra pho tượng “Quan Âm chỉ lộ”
bỗng nhiên biến mất. Tất cả nháo nhác đi tìm. Anh Lai rất bực, đập vỡ
cả lọ hoa. Không khí ngày Tết trở nên ảm đạm. Thật vô lý quá, ngôi
biệt thự này có tường bao quanh, không ai ra vào. Đồ đạc trong nhà không
mất thứ gì. Tại sao bức tượng không cánh mà bay?
Anh Lai gọi
từng người một vào phòng cật vấn. Anh tỏ ra rất bực. Cháu Quang, cháu Vân bị xúc phạm, phát khóc, bỏ đi,
tối cũng không về. Tất cả nghi ngờ đổ vào cháu Yên, cô bé “ô-sin” tội nghiệp.
Cô bé gọi tên Chúa, thề thốt đủ điều. Chị Hỷ lục soát các túi đồ đạc, áo quần của
nó. Tôi cố can gián nhưng không làm
sao ngăn được sự giận dữ của hai vợ chồng anh Lai. Sáng mồng 2 Tết, chị
Hỷ tống cổ cháu Yên, mua vé tàu hoả bắt nó trở về Hà Nội. Những ngày nghỉ
Tết còn lại trở nên khó chịu vô cùng. Ngày mồng 4 Tết, anh Lai họp mọi
người trong nhà, quyết định trở về Hà Nội sớm hơn dự định. Chị Hỷ thu xếp đồ đạc, sai
cháu Quang đi thuê xe ô tô chở chúng tôi về Hà Nội ngay ngày hôm ấy.
Anh Lai gọi tôi vào phòng, đóng cửa
lại, bảo tôi:
- Gia đình tôi thật có lỗi với chú. Sự việc xảy ra thật
không hay. Pho tượng quý bị mất, tôi
rất ân hận. Gia đình tôi tự thấy phải có trách nhiệm bồi
thường cho chú...
Anh Lai lấy tiền ra, bảo tôi:
- Đây là 1
nghìn đô-la. Số tiền này không phải là số tiền đánh giá giá trị pho
tượng. Nó có thể hơn thế, cũng có
thể nó không bằng thế... Chú hiểu cho tôi, đây chỉ là một số tiền mọn nhỏ nhoi, giải quyết
một sự kiện mọn không ra gì. Thực khốn nạn, tôi không biết chứng minh danh
dự của gia đình tôi bằng cách thế nào với chú.Khi phải dùng hạ sách này, chính
tôi, tôi cũng rất nhục. Chú hiểu cho tôi, từ xưa đến nay tôi vốn là người
dứt khoát, rạch ròi, chính trực.
Tôi bảo anh Lai rằng anh không nên làm
thế, rằng pho tượng này chỉ là quà tặng mà thôi, rằng tôi có được cơ duyên làm
bạn với gia đình anh thì không nên chỉ vì một chuyện nhỏ con mà làm phương hại
tình cảm với nhau, rằng...
Anh Lai cố ép
nhưng tôi không nhận. Chúng tôi cãi nhau. Cuối cùng tôi nói, thực ra cũng vì quá bực mình với
thái độ kiên quyết cố chấp của anh:
- Thế anh có bao giờ nghĩ rằng chính
tôi giấu đi pho tượng này không? Có thể vì mục đích này hay mục đích khác?
Anh Lai cười nhạt, ngồi xuống ghế, lắc
đầu:
- Thực ra, cũng có lúc tôi đã nghĩ thế. Xin lỗi chú, tôi cũng
đã bí mật lục soát đồ đạc của chú. Do
nghề nghiệp, tôi đã phải tiếp xúc, làm việc với đủ hạng người, xem xét cả khía
cạnh cao thượng lẫn lưu manh trong con người họ, không trừ ai hết, kể cả người
thân. Không
phải tôi không tin con người, không phải tôi không nhân văn, chú đừng đánh giá
tôi thấp, rằng tôi là kẻ lạnh lùng. Có những công việc không nên để cho
cảm tính dự vào. Thú thực với chú, không
một hạng người nào mà qua được mắt của tôi, tôi không đảm bảo 100% nhưng tới
90% thì tôi chắc chắn, rằng tôi hiểu được họ và tôi kiểm soát được họ, trừ một
loại người... Chú có biết không, chính là nhà văn, chính là những người như
chú...
Tôi lặng người
đi, bỗng nhiên thấy trong lòng mình đắng ngắt. Anh Lai đi đi lại lại trong
phòng. Anh nói với tôi:
- Tôi không hiểu nổi một người viết văn
như chú. Chú
là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho mọi người dằn vặt lòng
mình? Chú có quyền gì? Ai trao cho chú cái quyền năng ấy? Tư cách của chú tôi gạt sang bên. Tôi không hiểu sao mọi
người vì nể một người như chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng
ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt... Tôi chỉ nhận ra ở chú dục vọng hão
huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng hão huyền, ghê gớm ấy ở mỗi một
người? Điều ấy là tốt ư? Không
phải! Xấu
ư? Không phải! Từ bản chất, tôi vừa
căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú. Chú có hiểu không?
Tôi ngạc
nhiên nhìn anh Lai. Hoá ra chuyến đi của tôi và gia đình anh chỉ là cái cớ
để anh tìm hiểu về tôi. Tôi bật cười, hoàn toàn bất ngờ vì sự trớ trêu trong
hoàn cảnh đó của mình.
Tôi dứt khoát
không nhận số tiền anh Lai đưa cho. Tôi có những nguyên tắc lương tâm của
tôi. Tôi nói với anh rằng thực ra số tiền này phải thuộc về người đàn ông
người Mông nghiện ngập mà tôi ngẫu nhiên gặp gỡ, chính tôi cũng chẳng biết tên
tuổi ông ta là gì. Nếu có số tiền ấy, ông ta cũng chỉ dùng để hút thuốc
phiện mà thôi, nó cũng chẳng giúp cho ông ta cải thiện thêm gì số phận tồi tệ
của mình. Câu chuyện về bức tượng “Quan Âm chỉ lộ” tốt nhất là nên
chấm dứt ở đây. Tôi hy vọng tình cảm của tôi với gia đình anh không phải
chỉ vì một chuyện nhỏ nhoi thế này mà sứt mẻ.
Chúng tôi về
Hà Nội. Thời gian trôi đi. Tôi cũng nghĩ rằng câu chuyện không vui
trong dịp Tết năm ấy rồi cũng rơi vào quên lãng, chẳng còn ai nhớ. Sáu tháng sau, tôi được biết anh Lai đã đi nhận công
tác mới, cháu Quang cũng sang bên Mỹ làm việc, cháu Vân thì đi học đại học ở
Anh. Một
hôm, chị Hỷ đến nhà tôi chơi. Tôi rất ngạc nhiên thấy chị mang đến bức
tượng “Quan Âm chỉ lộ”. Chị
nói:
- Tôi đã tra hỏi con bé “ô-sin”. Tôi đã không
nhầm. Nó là thủ phạm của vụ trộm này. Chú có biết không, hạng người như nó thì có dạy dỗ thế nào vẫn thế...
Tôi đã đuổi việc nó rồi!
Tôi mời chị Hỷ ở lại ăn cơm nhưng chị từ chối nói là rất bận. Tôi ngồi một
mình, buồn bã nâng bức tượng lên tay xem
xét. Hình ảnh cô gái bé nhỏ âm thầm quỳ trước bàn thờ Chúa cầu nguyện hôm nào
trong ngôi nhà thờ ở Sa Pa hiện ra ở trước mắt tôi. Tội nghiệp cho nó. Tôi không tin
nó là thủ phạm. Ở bên ngoài, những
chiếc lá của cây báng súng rơi lả tả trên nền sân đá.
Chị Hỷ ra
về. Tôi cẩn thận đặt bức tượng Phật lên trên bàn thờ. Trên khuôn mặt Quan Thế Âm Bồ tát hình như có một giọt
nước mắt trong veo lăn xuống khóc cho số phận trớ trêu của mỗi con người.
Chắc chắn là tôi sẽ còn quay trở lại Sa
Pa. Phải trở lại chứ! Vì sao ư? Vì Sa Pa là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người!
Trên đất nước
mình, đâu đâu chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người? Hãy làm cho
mảnh đất này ngày càng phì nhiêu, tươi đẹp. Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ
thế.
Vậy còn bạn,
bạn nghĩ thế không?
Kìa Xuân đang
về. Lại một cái Tết đi qua. Hãy lắng nghe âm thanh trong lòng. Phải sống! Phải sống cho ra giá trị cuộc sống con
người, dù cho thế nào đi nữa...
---------------------------
(1): Thơ Nguyễn
Bính.
Hà Nội, 12/2004
0 nhận xét:
Đăng nhận xét